{"title":"ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN BỆNH GIUN RỒNG Ở NGƯỜI TẠI BA TỈNH PHÚ THỌ, YÊN BÁI VÀ THANH HOÁ","authors":"Nguyễn Lương Tình, Nguyễn Quang Thiều, Trần Quang Phục, Đỗ Trung Dũng,","doi":"10.59253/tcpcsr.v131i5.174","DOIUrl":null,"url":null,"abstract":"Bệnh giun rồng (Bệnh giun Guinea) do một loại giun tròn có tên là Dracunculusmedinensis gây ra. Đây là bệnh thuộc nhóm bệnh nhiệt đới bị lãng quên (NTDs) và làbệnh ký sinh trùng đầu tiên được Tổ chức Y tế Thế giới hướng tới mục tiêu thanh toántrên phạm vi toàn cầu từ năm 1986. Tại Việt Nam ca bệnh giun rồng đầu tiên được báocáo vào tháng 4 năm 2020 và sau đó xuất hiện rải rác các trường hợp bệnh ở người kểtừ năm 2020 đến 2022. Chúng tôi đã tiến hành một nghiên cứu bệnh chứng tại các tỉnhPhú Thọ, Thanh Hóa và Yên Bái từ tháng 8 đến tháng 11 năm 2022 để đánh giá biểuhiện lâm sàng và các yếu tố nguy cơ nhiễm giun rồng bằng phương pháp phỏng vấn sâu.Nhóm bệnh gồm 15 trường hợp bệnh đã được xác nhận nhiễm giun rồng trong thời giantừ năm 2020-2022. Nhóm chứng gồm 60 người ở gần nhất với nhà bệnh nhân, khôngphân biệt độ tuổi, giới tính, dân tộc, nghề nghiệp (mỗi trường hợp bệnh được kết hợpvới 4 đối chứng). Kết quả điều tra cho thấy các biểu hiện lâm sàng chính của bệnh giunrồng bao gồm: Nổi mẩn, ngứa (100%); Có nốt sưng tấy khu trú (100%); Đau cơ vùnggiun khu trú (93,3%); Đau, rát nốt sưng tấy (93,3%); Chảy dịch từ nốt sưng tấy (73,3%);Có đầu giun trồi ra từ nốt sưng tấy (80%). Các yếu tố liên quan đến nhiễm giun rồngbao gồm ăn cá sống với OR 23,8 (95%CI 1,36-416,35); ăn thịt ếch, nhái tái sống vớiOR 38,5 (95%CI 8,34-177,66); ăn thịt rắn tái, sống OR 7,9 (95% CI 2,11-29,46); uốngnước không sạch OR 35,4 (95%CI 2,02-617,76). Tuy nhiên, cần có các nghiên cứu sâuhơn về thực trạng nhiễm, nguồn bệnh, mầm bệnh tại các vùng dịch tễ. Bên cạnh đó, cầncó các biện pháp truyền thông giáo dục người dân về cách tiêu thụ thực phẩm thủy sinh","PeriodicalId":259359,"journal":{"name":"TẠP CHÍ PHÒNG CHỐNG BỆNH SỐT RÉT VÀ CÁC BỆNH KÝ SINH TRÙNG","volume":"47 1","pages":"0"},"PeriodicalIF":0.0000,"publicationDate":"2023-07-03","publicationTypes":"Journal Article","fieldsOfStudy":null,"isOpenAccess":false,"openAccessPdf":"","citationCount":"0","resultStr":null,"platform":"Semanticscholar","paperid":null,"PeriodicalName":"TẠP CHÍ PHÒNG CHỐNG BỆNH SỐT RÉT VÀ CÁC BỆNH KÝ SINH TRÙNG","FirstCategoryId":"1085","ListUrlMain":"https://doi.org/10.59253/tcpcsr.v131i5.174","RegionNum":0,"RegionCategory":null,"ArticlePicture":[],"TitleCN":null,"AbstractTextCN":null,"PMCID":null,"EPubDate":"","PubModel":"","JCR":"","JCRName":"","Score":null,"Total":0}
引用次数: 0
Abstract
Bệnh giun rồng (Bệnh giun Guinea) do một loại giun tròn có tên là Dracunculusmedinensis gây ra. Đây là bệnh thuộc nhóm bệnh nhiệt đới bị lãng quên (NTDs) và làbệnh ký sinh trùng đầu tiên được Tổ chức Y tế Thế giới hướng tới mục tiêu thanh toántrên phạm vi toàn cầu từ năm 1986. Tại Việt Nam ca bệnh giun rồng đầu tiên được báocáo vào tháng 4 năm 2020 và sau đó xuất hiện rải rác các trường hợp bệnh ở người kểtừ năm 2020 đến 2022. Chúng tôi đã tiến hành một nghiên cứu bệnh chứng tại các tỉnhPhú Thọ, Thanh Hóa và Yên Bái từ tháng 8 đến tháng 11 năm 2022 để đánh giá biểuhiện lâm sàng và các yếu tố nguy cơ nhiễm giun rồng bằng phương pháp phỏng vấn sâu.Nhóm bệnh gồm 15 trường hợp bệnh đã được xác nhận nhiễm giun rồng trong thời giantừ năm 2020-2022. Nhóm chứng gồm 60 người ở gần nhất với nhà bệnh nhân, khôngphân biệt độ tuổi, giới tính, dân tộc, nghề nghiệp (mỗi trường hợp bệnh được kết hợpvới 4 đối chứng). Kết quả điều tra cho thấy các biểu hiện lâm sàng chính của bệnh giunrồng bao gồm: Nổi mẩn, ngứa (100%); Có nốt sưng tấy khu trú (100%); Đau cơ vùnggiun khu trú (93,3%); Đau, rát nốt sưng tấy (93,3%); Chảy dịch từ nốt sưng tấy (73,3%);Có đầu giun trồi ra từ nốt sưng tấy (80%). Các yếu tố liên quan đến nhiễm giun rồngbao gồm ăn cá sống với OR 23,8 (95%CI 1,36-416,35); ăn thịt ếch, nhái tái sống vớiOR 38,5 (95%CI 8,34-177,66); ăn thịt rắn tái, sống OR 7,9 (95% CI 2,11-29,46); uốngnước không sạch OR 35,4 (95%CI 2,02-617,76). Tuy nhiên, cần có các nghiên cứu sâuhơn về thực trạng nhiễm, nguồn bệnh, mầm bệnh tại các vùng dịch tễ. Bên cạnh đó, cầncó các biện pháp truyền thông giáo dục người dân về cách tiêu thụ thực phẩm thủy sinh