N. Lan, Trương Nguyễn Thái Hà, Mã Phạm Quế Mai, Nguyễn Cao Trí, Nguyễn Thị Hồng Diễm, Trần Bích Thư, Trương Đình Kiệt, Đặng Quang Vinh, N. Tiến, Hồ Mạnh Tường
{"title":"Đoường是一个新成员,他的名字是 \"Đoương\",意思是 \"我\"。","authors":"N. Lan, Trương Nguyễn Thái Hà, Mã Phạm Quế Mai, Nguyễn Cao Trí, Nguyễn Thị Hồng Diễm, Trần Bích Thư, Trương Đình Kiệt, Đặng Quang Vinh, N. Tiến, Hồ Mạnh Tường","doi":"10.52852/tcncyh.v174i1.2167","DOIUrl":null,"url":null,"abstract":"Trữ lạnh mô buồng trứng (OTC) để bảo tồn khả năng sinh sản ở phụ nữ được áp dụng ở nhiều trung tâm thụ tinh trong ống nghiệm trên thế giới. Tuy nhiên, chưa có một nghiên cứu nào được công bố tại Việt Nam. Nghiên cứu sử dụng biểu hiện gen GDF-9 và caspase-3 như một biomarker để khảo sát khả năng sống của nang noãn trong OTC tại IVFMD, Bệnh viện Mỹ Đức (theo NCT04666376) là nghiên cứu đầu tiên tại Việt Nam. Mô của mỗi bệnh nhân được chia 3 nhóm: 1 (không đông lạnh- chứng), 2 (đông lạnh bằng Ova-kit Type M) và 3 (đông lạnh bằng môi trường IVFMD). Sau đó, mẫu mô mỗi nhóm được tách chiết mRNA và chạy realtime RT-PCR. Kết quả là không có sự khác biệt về mức độ biểu hiện gen GDF-9 và caspase-3 giữa 3 nhóm mô, foldchange lần lượt [0,66; 1,38 ở nhóm 1 so nhóm 2] và [0,71; 1,08 ở nhóm 1 so với nhóm 3], p > 0,05. Các kết quả này tương đương với các nghiên cứu trên thế giới do ảnh hưởng của quá trình đông lạnh lên chất lượng của mô. Ngoài ra, kết quả nghiên cứu cũng chứng minh chất lượng mô đông lạnh bằng môi trường thương mại và môi trường IVFMD không có sự khác biệt.","PeriodicalId":509030,"journal":{"name":"Tạp chí Nghiên cứu Y học","volume":"9 4","pages":""},"PeriodicalIF":0.0000,"publicationDate":"2024-02-27","publicationTypes":"Journal Article","fieldsOfStudy":null,"isOpenAccess":false,"openAccessPdf":"","citationCount":"0","resultStr":"{\"title\":\"Đo lường biểu hiện gen như một phương pháp khảo sát khả năng sống của nang noãn trong kỹ thuật trữ lạnh mô buồng trứng\",\"authors\":\"N. Lan, Trương Nguyễn Thái Hà, Mã Phạm Quế Mai, Nguyễn Cao Trí, Nguyễn Thị Hồng Diễm, Trần Bích Thư, Trương Đình Kiệt, Đặng Quang Vinh, N. Tiến, Hồ Mạnh Tường\",\"doi\":\"10.52852/tcncyh.v174i1.2167\",\"DOIUrl\":null,\"url\":null,\"abstract\":\"Trữ lạnh mô buồng trứng (OTC) để bảo tồn khả năng sinh sản ở phụ nữ được áp dụng ở nhiều trung tâm thụ tinh trong ống nghiệm trên thế giới. Tuy nhiên, chưa có một nghiên cứu nào được công bố tại Việt Nam. Nghiên cứu sử dụng biểu hiện gen GDF-9 và caspase-3 như một biomarker để khảo sát khả năng sống của nang noãn trong OTC tại IVFMD, Bệnh viện Mỹ Đức (theo NCT04666376) là nghiên cứu đầu tiên tại Việt Nam. Mô của mỗi bệnh nhân được chia 3 nhóm: 1 (không đông lạnh- chứng), 2 (đông lạnh bằng Ova-kit Type M) và 3 (đông lạnh bằng môi trường IVFMD). Sau đó, mẫu mô mỗi nhóm được tách chiết mRNA và chạy realtime RT-PCR. Kết quả là không có sự khác biệt về mức độ biểu hiện gen GDF-9 và caspase-3 giữa 3 nhóm mô, foldchange lần lượt [0,66; 1,38 ở nhóm 1 so nhóm 2] và [0,71; 1,08 ở nhóm 1 so với nhóm 3], p > 0,05. Các kết quả này tương đương với các nghiên cứu trên thế giới do ảnh hưởng của quá trình đông lạnh lên chất lượng của mô. Ngoài ra, kết quả nghiên cứu cũng chứng minh chất lượng mô đông lạnh bằng môi trường thương mại và môi trường IVFMD không có sự khác biệt.\",\"PeriodicalId\":509030,\"journal\":{\"name\":\"Tạp chí Nghiên cứu Y học\",\"volume\":\"9 4\",\"pages\":\"\"},\"PeriodicalIF\":0.0000,\"publicationDate\":\"2024-02-27\",\"publicationTypes\":\"Journal Article\",\"fieldsOfStudy\":null,\"isOpenAccess\":false,\"openAccessPdf\":\"\",\"citationCount\":\"0\",\"resultStr\":null,\"platform\":\"Semanticscholar\",\"paperid\":null,\"PeriodicalName\":\"Tạp chí Nghiên cứu Y học\",\"FirstCategoryId\":\"1085\",\"ListUrlMain\":\"https://doi.org/10.52852/tcncyh.v174i1.2167\",\"RegionNum\":0,\"RegionCategory\":null,\"ArticlePicture\":[],\"TitleCN\":null,\"AbstractTextCN\":null,\"PMCID\":null,\"EPubDate\":\"\",\"PubModel\":\"\",\"JCR\":\"\",\"JCRName\":\"\",\"Score\":null,\"Total\":0}","platform":"Semanticscholar","paperid":null,"PeriodicalName":"Tạp chí Nghiên cứu Y học","FirstCategoryId":"1085","ListUrlMain":"https://doi.org/10.52852/tcncyh.v174i1.2167","RegionNum":0,"RegionCategory":null,"ArticlePicture":[],"TitleCN":null,"AbstractTextCN":null,"PMCID":null,"EPubDate":"","PubModel":"","JCR":"","JCRName":"","Score":null,"Total":0}
引用次数: 0
摘要
OTC (非处方药) 是一种新的药物。Tuy nhiên, chưa có một nghiên cu nào được công bối Việt Nam.Nghiên cứu sụng biểu hiện gen GDF-9 và caspase-3 như'mt biomarker đhểo sát năng của nang noãn trong OTC tại IVFMD、Bệnh viện Mỹ Đức (theo NCT04666376) là nghiên cứu đầu tiên tại Việt Nam.我们有 3 个选择:1(không đông lạnh- chứng)、2(đông lạnh bằng Ova-kit Type M)和 3(đông lạnh bằng môi trường IVFMD)。在进行实时 RT-PCR 时,实验人员会检测 mRNA 和实时 RT-PCR。结果表明,GDF-9 和 Caspase-3 基因在 3 个 nhóm mô中的折叠变化为 [0,66; 1,38 ở nhóm 1 so nhóm 2] 和 [0,71; 1,08 ở nhóm 1 so nhóm 3],p > 0,05。在此,我们建议您,在您的电脑中输入您所需要的信息。现在,您可以在您的网站上找到 IVFMD 的相关信息。
Đo lường biểu hiện gen như một phương pháp khảo sát khả năng sống của nang noãn trong kỹ thuật trữ lạnh mô buồng trứng
Trữ lạnh mô buồng trứng (OTC) để bảo tồn khả năng sinh sản ở phụ nữ được áp dụng ở nhiều trung tâm thụ tinh trong ống nghiệm trên thế giới. Tuy nhiên, chưa có một nghiên cứu nào được công bố tại Việt Nam. Nghiên cứu sử dụng biểu hiện gen GDF-9 và caspase-3 như một biomarker để khảo sát khả năng sống của nang noãn trong OTC tại IVFMD, Bệnh viện Mỹ Đức (theo NCT04666376) là nghiên cứu đầu tiên tại Việt Nam. Mô của mỗi bệnh nhân được chia 3 nhóm: 1 (không đông lạnh- chứng), 2 (đông lạnh bằng Ova-kit Type M) và 3 (đông lạnh bằng môi trường IVFMD). Sau đó, mẫu mô mỗi nhóm được tách chiết mRNA và chạy realtime RT-PCR. Kết quả là không có sự khác biệt về mức độ biểu hiện gen GDF-9 và caspase-3 giữa 3 nhóm mô, foldchange lần lượt [0,66; 1,38 ở nhóm 1 so nhóm 2] và [0,71; 1,08 ở nhóm 1 so với nhóm 3], p > 0,05. Các kết quả này tương đương với các nghiên cứu trên thế giới do ảnh hưởng của quá trình đông lạnh lên chất lượng của mô. Ngoài ra, kết quả nghiên cứu cũng chứng minh chất lượng mô đông lạnh bằng môi trường thương mại và môi trường IVFMD không có sự khác biệt.