Pub Date : 2024-04-11DOI: 10.33100/tckhxhnv9.1b.vuthitrang
Vũ Trọng Phụng xuất hiện trên văn đàn đã gần một thế kỉ, trải qua nhiều thăng trầm, biến động và những đánh giá có lúc trái ngược nhau, đến nay sáng tác của ông đã được nhiều nhà nghiên cứu uy tín khẳng định có giá trị bền vững và mang tính hiện đại. Số đỏ là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của Vũ Trọng Phụng, đã được nghiên cứu khá kĩ từ nhiều góc độ như vấn đề trào phúng, tiếng cười, nghiên cứu về ngôn ngữ, xây dựng tính cách nhân vật, v.v.. Về Xuân tóc đỏ hầu hết các nhà nghiên cứu đều cho rằng đây là một nhân vật lưu manh, bịp bợm. Tuy nhiên, trong suốt hành trình bước chân vào thế giới thượng lưu, bên cạnh sự lọc lừa, tinh quái, Xuân tóc đỏ cũng thể hiện sự khôn khéo, nhạy cảm và cách xử lí tình huống thông minh. Không những vậy, nhân vật này còn thể hiện tinh thần trách nhiệm trong công việc và có lòng trắc ẩn, thương người. Đó là những phẩm chất tích cực của Xuân tóc đỏ mà các nhà nghiên cứu xưa nay ít để ý đến, cũng là tinh thần hiện đại của nhân vật mà Vũ Trọng Phụng muốn truyền tải.
{"title":"Xuân tóc đỏ không hoàn toàn lưu manh","authors":"","doi":"10.33100/tckhxhnv9.1b.vuthitrang","DOIUrl":"https://doi.org/10.33100/tckhxhnv9.1b.vuthitrang","url":null,"abstract":"Vũ Trọng Phụng xuất hiện trên văn đàn đã gần một thế kỉ, trải qua nhiều thăng trầm, biến động và những đánh giá có lúc trái ngược nhau, đến nay sáng tác của ông đã được nhiều nhà nghiên cứu uy tín khẳng định có giá trị bền vững và mang tính hiện đại. Số đỏ là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của Vũ Trọng Phụng, đã được nghiên cứu khá kĩ từ nhiều góc độ như vấn đề trào phúng, tiếng cười, nghiên cứu về ngôn ngữ, xây dựng tính cách nhân vật, v.v.. Về Xuân tóc đỏ hầu hết các nhà nghiên cứu đều cho rằng đây là một nhân vật lưu manh, bịp bợm. Tuy nhiên, trong suốt hành trình bước chân vào thế giới thượng lưu, bên cạnh sự lọc lừa, tinh quái, Xuân tóc đỏ cũng thể hiện sự khôn khéo, nhạy cảm và cách xử lí tình huống thông minh. Không những vậy, nhân vật này còn thể hiện tinh thần trách nhiệm trong công việc và có lòng trắc ẩn, thương người. Đó là những phẩm chất tích cực của Xuân tóc đỏ mà các nhà nghiên cứu xưa nay ít để ý đến, cũng là tinh thần hiện đại của nhân vật mà Vũ Trọng Phụng muốn truyền tải.","PeriodicalId":507297,"journal":{"name":"Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn (VNU Journal of Social Sciences and Humanities)","volume":"12 5","pages":""},"PeriodicalIF":0.0,"publicationDate":"2024-04-11","publicationTypes":"Journal Article","fieldsOfStudy":null,"isOpenAccess":false,"openAccessPdf":"","citationCount":null,"resultStr":null,"platform":"Semanticscholar","paperid":"140714127","PeriodicalName":null,"FirstCategoryId":null,"ListUrlMain":null,"RegionNum":0,"RegionCategory":"","ArticlePicture":[],"TitleCN":null,"AbstractTextCN":null,"PMCID":"","EPubDate":null,"PubModel":null,"JCR":null,"JCRName":null,"Score":null,"Total":0}
Pub Date : 2024-04-11DOI: 10.33100/tckhxhnv9.1b.duonghuyhiep
Các phương tiện biểu đạt tình thái đạo nghĩa được sử dụng rộng rãi trong các văn bản hành chính quân sự tiếng Anh. Các phương tiện này được cấp trên hoặc người chỉ huy sử dụng để thể hiện sự bắt buộc hoặc cho phép đối với cấp dưới nhằm truyền đạt mệnh lệnh, yêu cầu, đề nghị hoặc đồng ý để thực hiện một nhiệm vụ hoặc kế hoạch nhất định trong môi trường quân sự. Nắm được ý nghĩa và cách sử dụng các phương tiện biểu đạt tình thái này sẽ giúp người soạn thảo văn bản lựa chọn được các phương tiện biểu đạt phù hợp, chuẩn mực để tạo ra một văn bản rõ ràng, chính xác, thống nhất, góp phần hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.
{"title":"Tình thái đạo nghĩa trong các văn bản hành chính quân sự tiếng Anh","authors":"","doi":"10.33100/tckhxhnv9.1b.duonghuyhiep","DOIUrl":"https://doi.org/10.33100/tckhxhnv9.1b.duonghuyhiep","url":null,"abstract":"Các phương tiện biểu đạt tình thái đạo nghĩa được sử dụng rộng rãi trong các văn bản hành chính quân sự tiếng Anh. Các phương tiện này được cấp trên hoặc người chỉ huy sử dụng để thể hiện sự bắt buộc hoặc cho phép đối với cấp dưới nhằm truyền đạt mệnh lệnh, yêu cầu, đề nghị hoặc đồng ý để thực hiện một nhiệm vụ hoặc kế hoạch nhất định trong môi trường quân sự. Nắm được ý nghĩa và cách sử dụng các phương tiện biểu đạt tình thái này sẽ giúp người soạn thảo văn bản lựa chọn được các phương tiện biểu đạt phù hợp, chuẩn mực để tạo ra một văn bản rõ ràng, chính xác, thống nhất, góp phần hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.","PeriodicalId":507297,"journal":{"name":"Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn (VNU Journal of Social Sciences and Humanities)","volume":"31 2","pages":""},"PeriodicalIF":0.0,"publicationDate":"2024-04-11","publicationTypes":"Journal Article","fieldsOfStudy":null,"isOpenAccess":false,"openAccessPdf":"","citationCount":null,"resultStr":null,"platform":"Semanticscholar","paperid":"140715508","PeriodicalName":null,"FirstCategoryId":null,"ListUrlMain":null,"RegionNum":0,"RegionCategory":"","ArticlePicture":[],"TitleCN":null,"AbstractTextCN":null,"PMCID":"","EPubDate":null,"PubModel":null,"JCR":null,"JCRName":null,"Score":null,"Total":0}
Pub Date : 2024-04-11DOI: 10.33100/tckhxhnv9.1b.dohuythuong-nguyenthiphuonghong
Nghiên cứu này tập trung vào phân tích các yếu tố tác động đến kết quả học tập của học viên cao học thuộc các khối ngành khoa học xã hội, quản lý – kinh tế, kỹ thuật và nghệ thuật ở Hà Nội bằng cách sử dụng hồi quy đa biến với mẫu khảo sát 222 học viên. Kết quả cho thấy, yếu tố “cơ sở vật chất” có ảnh hưởng mạnh nhất đến kết quả học tập của học viên. Tiếp đến là “kiên định trong học tập”, “phương pháp giảng dạy của giảng viên”, “hoạt động tương tác của giảng viên trong lớp”, “hoạt động giảng dạy của giảng viên” và “động cơ học tập của học viên”. Trong khi đó, “cạnh tranh trong học tập” có ít ảnh hưởng nhất đến kết quả học tập của học viên. Qua đó, nghiên cứu đưa ra một số gợi ý nhằm nâng cao chất lượng đào tạo của các cơ sở giáo dục trong thời gian tới.
{"title":"Những yếu tố ảnh hưởng đến kết quả học tập của học viên cao học ở Hà Nội","authors":"","doi":"10.33100/tckhxhnv9.1b.dohuythuong-nguyenthiphuonghong","DOIUrl":"https://doi.org/10.33100/tckhxhnv9.1b.dohuythuong-nguyenthiphuonghong","url":null,"abstract":"Nghiên cứu này tập trung vào phân tích các yếu tố tác động đến kết quả học tập của học viên cao học thuộc các khối ngành khoa học xã hội, quản lý – kinh tế, kỹ thuật và nghệ thuật ở Hà Nội bằng cách sử dụng hồi quy đa biến với mẫu khảo sát 222 học viên. Kết quả cho thấy, yếu tố “cơ sở vật chất” có ảnh hưởng mạnh nhất đến kết quả học tập của học viên. Tiếp đến là “kiên định trong học tập”, “phương pháp giảng dạy của giảng viên”, “hoạt động tương tác của giảng viên trong lớp”, “hoạt động giảng dạy của giảng viên” và “động cơ học tập của học viên”. Trong khi đó, “cạnh tranh trong học tập” có ít ảnh hưởng nhất đến kết quả học tập của học viên. Qua đó, nghiên cứu đưa ra một số gợi ý nhằm nâng cao chất lượng đào tạo của các cơ sở giáo dục trong thời gian tới.","PeriodicalId":507297,"journal":{"name":"Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn (VNU Journal of Social Sciences and Humanities)","volume":"28 5","pages":""},"PeriodicalIF":0.0,"publicationDate":"2024-04-11","publicationTypes":"Journal Article","fieldsOfStudy":null,"isOpenAccess":false,"openAccessPdf":"","citationCount":null,"resultStr":null,"platform":"Semanticscholar","paperid":"140716270","PeriodicalName":null,"FirstCategoryId":null,"ListUrlMain":null,"RegionNum":0,"RegionCategory":"","ArticlePicture":[],"TitleCN":null,"AbstractTextCN":null,"PMCID":"","EPubDate":null,"PubModel":null,"JCR":null,"JCRName":null,"Score":null,"Total":0}
Pub Date : 2024-02-19DOI: 10.33100/tckhxhnv9.6.hoangthiyen-nguyenthinguyetminh
Bài viết này sử dụng phương pháp nghiên cứu tài liệu (phân tích tài liệu) nhằm xác định rõ số lần tiếp xúc, giao lưu giữa các sứ thần Đại Việt và Triều Tiên tại Trung Quốc (từ thế kỉ XV đến đầu thế kỉ XX). Bài viết đã phân tích và tổng hợp được thông tin về 23 đoàn sứ với 73 thành viên cùng các mốc thời gian tương đối đầy đủ. Tuy nhiên, có một số cứ liệu liên quan các nhà nghiên cứu đưa ra có đôi chỗ chưa rõ ràng và thống nhất. Cụ thể là: i) Có 6 đoàn sứ Triều Tiên không xác định được số lượng và danh tính cụ thể của các thành viên; ii) Tồn tại sự thiếu nhất quán trong số lần các đoàn sứ thần tiếp xúc và giao lưu; iii) Có sự thiếu chính xác và không đồng nhất trong việc phiên âm và ghi tên các thành viên đoàn sứ; iv) Thời điểm đi sứ của một số đoàn ít nhiều có sự khác biệt. Vì vậy, trong tương lai cần có thêm các nghiên cứu tiếp cận với phạm vi rộng và sâu hơn về nội dung và ý nghĩa của các cuộc tiếp xúc giữa sứ thần các nước.
您现在可以在您的网站上注册您的用户(注册用户)、您可以选择在 Việt 或 Triều Tiên tại Trung Quốc (từ 家乡 XVếnđầu thế kỉ XX)。该地区有23个村庄,73个村落。在此,我想向您介绍一下,我们的用户可以在我们的网站上找到关于我们的信息。请继续:i) Có 6 đoàn s'Triều Tiên không xác địn được và danh tính cụche của các thành viên; ii) Tồn ti s's t nhất quán trong s'lần cácếp xúc và giao lưu;(三)汉字既是一种语言,也是一种文化,它是通过语言来表达的。但是,當你進入這個網站時,你可能會被它的功能所吸引,而你也會被它的功能所吸引。
{"title":"23 lần giao lưu, tiếp xúc của sứ thần Đại Việt và Triều Tiên tại Trung Quốc","authors":"","doi":"10.33100/tckhxhnv9.6.hoangthiyen-nguyenthinguyetminh","DOIUrl":"https://doi.org/10.33100/tckhxhnv9.6.hoangthiyen-nguyenthinguyetminh","url":null,"abstract":"Bài viết này sử dụng phương pháp nghiên cứu tài liệu (phân tích tài liệu) nhằm xác định rõ số lần tiếp xúc, giao lưu giữa các sứ thần Đại Việt và Triều Tiên tại Trung Quốc (từ thế kỉ XV đến đầu thế kỉ XX). Bài viết đã phân tích và tổng hợp được thông tin về 23 đoàn sứ với 73 thành viên cùng các mốc thời gian tương đối đầy đủ. Tuy nhiên, có một số cứ liệu liên quan các nhà nghiên cứu đưa ra có đôi chỗ chưa rõ ràng và thống nhất. Cụ thể là: i) Có 6 đoàn sứ Triều Tiên không xác định được số lượng và danh tính cụ thể của các thành viên; ii) Tồn tại sự thiếu nhất quán trong số lần các đoàn sứ thần tiếp xúc và giao lưu; iii) Có sự thiếu chính xác và không đồng nhất trong việc phiên âm và ghi tên các thành viên đoàn sứ; iv) Thời điểm đi sứ của một số đoàn ít nhiều có sự khác biệt. Vì vậy, trong tương lai cần có thêm các nghiên cứu tiếp cận với phạm vi rộng và sâu hơn về nội dung và ý nghĩa của các cuộc tiếp xúc giữa sứ thần các nước.","PeriodicalId":507297,"journal":{"name":"Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn (VNU Journal of Social Sciences and Humanities)","volume":"98 ","pages":""},"PeriodicalIF":0.0,"publicationDate":"2024-02-19","publicationTypes":"Journal Article","fieldsOfStudy":null,"isOpenAccess":false,"openAccessPdf":"","citationCount":null,"resultStr":null,"platform":"Semanticscholar","paperid":"140449350","PeriodicalName":null,"FirstCategoryId":null,"ListUrlMain":null,"RegionNum":0,"RegionCategory":"","ArticlePicture":[],"TitleCN":null,"AbstractTextCN":null,"PMCID":"","EPubDate":null,"PubModel":null,"JCR":null,"JCRName":null,"Score":null,"Total":0}
Pub Date : 2024-02-19DOI: 10.33100/tckhxhnv9.6.nguyenduckimngan
Tiền lương, thưởng, phúc lợi có vai trò quan trọng đối với giảng viên tại các cơ sở giáo dục đại học, là phương thức hữu hiệu để tạo động lực làm việc cho giảng viên thông qua tác động trực tiếp đến tâm lý và kết quả công việc của giảng viên, giúp họ hài lòng với công việc, yên tâm công tác và sẵn sàng cống hiến cho nhà trường. Nghiên cứu này được tiến hành nhằm đánh giá thực trạng động lực làm việc của giảng viên thông qua chế độ tiền lương, thưởng, phúc lợi bằng việc khảo sát 135 giảng viên từ các cơ sở giáo dục đại học công lập trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. Kết quả nghiên cứu cho thấy, các cơ sở giáo dục đại học công lập tại Thành phố Hồ Chí Minh đã thực hiện đầy đủ và nghiêm túc các quy định về chế độ tiền lương, thưởng, phúc lợi dành cho giảng viên, tuy nhiên phương thức này vẫn chưa thực sự tạo ra động lực làm việc cho giảng viên. Trên cơ sở đó, bài viết đề xuất các giải pháp để tạo động lực làm việc cho giảng viên tại các cơ sở giáo dục đại học công lập trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh.
{"title":"Tạo động lực làm việc cho giảng viên thông qua tiền lương, thưởng, phúc lợi trong bối cảnh đổi mới giáo dục đại học tại các trường đại học công lập trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh","authors":"","doi":"10.33100/tckhxhnv9.6.nguyenduckimngan","DOIUrl":"https://doi.org/10.33100/tckhxhnv9.6.nguyenduckimngan","url":null,"abstract":"Tiền lương, thưởng, phúc lợi có vai trò quan trọng đối với giảng viên tại các cơ sở giáo dục đại học, là phương thức hữu hiệu để tạo động lực làm việc cho giảng viên thông qua tác động trực tiếp đến tâm lý và kết quả công việc của giảng viên, giúp họ hài lòng với công việc, yên tâm công tác và sẵn sàng cống hiến cho nhà trường. Nghiên cứu này được tiến hành nhằm đánh giá thực trạng động lực làm việc của giảng viên thông qua chế độ tiền lương, thưởng, phúc lợi bằng việc khảo sát 135 giảng viên từ các cơ sở giáo dục đại học công lập trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. Kết quả nghiên cứu cho thấy, các cơ sở giáo dục đại học công lập tại Thành phố Hồ Chí Minh đã thực hiện đầy đủ và nghiêm túc các quy định về chế độ tiền lương, thưởng, phúc lợi dành cho giảng viên, tuy nhiên phương thức này vẫn chưa thực sự tạo ra động lực làm việc cho giảng viên. Trên cơ sở đó, bài viết đề xuất các giải pháp để tạo động lực làm việc cho giảng viên tại các cơ sở giáo dục đại học công lập trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh.","PeriodicalId":507297,"journal":{"name":"Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn (VNU Journal of Social Sciences and Humanities)","volume":"204 ","pages":""},"PeriodicalIF":0.0,"publicationDate":"2024-02-19","publicationTypes":"Journal Article","fieldsOfStudy":null,"isOpenAccess":false,"openAccessPdf":"","citationCount":null,"resultStr":null,"platform":"Semanticscholar","paperid":"140449739","PeriodicalName":null,"FirstCategoryId":null,"ListUrlMain":null,"RegionNum":0,"RegionCategory":"","ArticlePicture":[],"TitleCN":null,"AbstractTextCN":null,"PMCID":"","EPubDate":null,"PubModel":null,"JCR":null,"JCRName":null,"Score":null,"Total":0}
Pub Date : 2024-02-19DOI: 10.33100/tckhxhnv9.6.nguyenthinhu
Trong lịch sử Việt Nam, đã có ba lần diễn ra sự hội nhập giữa Nho - Phật - Đạo, lần thứ nhất xảy ra vào khoảng thế kỷ II - III, lần thứ hai diễn ra vào thời Lý - Trần, lần thứ ba xảy ra vào nửa cuối thế kỷ XVIII. Vị trí, vai trò của mỗi học thuyết trong mối quan hệ tam giáo không chỉ có sự khác biệt giữa thời Lý - Trần với các thời đại khác, mà còn thể hiện sự khác biệt ở các giai đoạn phát triển dưới thời Lý - Trần. Trong bài viết này, tác giả sẽ tập trung phân tích nguồn gốc của chủ trương hội nhập tam giáo và biểu hiện của sự hội nhập ấy, không chỉ ở sự cùng tồn tại, thâm nhập vào nhau, bổ sung cho nhau giữa các dòng tư tưởng, mà còn ở sự biến thiên về vai trò của Nho giáo và Phật giáo trong mối quan hệ tam giáo thời Lý - Trần, thể hiện ở sự gia tăng vị thế của tầng lớp nho sĩ so với tầng lớp tăng lữ dưới các triều đại này.
{"title":"Xu hướng hội nhập tam giáo thời Lý - Trần","authors":"","doi":"10.33100/tckhxhnv9.6.nguyenthinhu","DOIUrl":"https://doi.org/10.33100/tckhxhnv9.6.nguyenthinhu","url":null,"abstract":"Trong lịch sử Việt Nam, đã có ba lần diễn ra sự hội nhập giữa Nho - Phật - Đạo, lần thứ nhất xảy ra vào khoảng thế kỷ II - III, lần thứ hai diễn ra vào thời Lý - Trần, lần thứ ba xảy ra vào nửa cuối thế kỷ XVIII. Vị trí, vai trò của mỗi học thuyết trong mối quan hệ tam giáo không chỉ có sự khác biệt giữa thời Lý - Trần với các thời đại khác, mà còn thể hiện sự khác biệt ở các giai đoạn phát triển dưới thời Lý - Trần. Trong bài viết này, tác giả sẽ tập trung phân tích nguồn gốc của chủ trương hội nhập tam giáo và biểu hiện của sự hội nhập ấy, không chỉ ở sự cùng tồn tại, thâm nhập vào nhau, bổ sung cho nhau giữa các dòng tư tưởng, mà còn ở sự biến thiên về vai trò của Nho giáo và Phật giáo trong mối quan hệ tam giáo thời Lý - Trần, thể hiện ở sự gia tăng vị thế của tầng lớp nho sĩ so với tầng lớp tăng lữ dưới các triều đại này.","PeriodicalId":507297,"journal":{"name":"Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn (VNU Journal of Social Sciences and Humanities)","volume":"251 ","pages":""},"PeriodicalIF":0.0,"publicationDate":"2024-02-19","publicationTypes":"Journal Article","fieldsOfStudy":null,"isOpenAccess":false,"openAccessPdf":"","citationCount":null,"resultStr":null,"platform":"Semanticscholar","paperid":"140450847","PeriodicalName":null,"FirstCategoryId":null,"ListUrlMain":null,"RegionNum":0,"RegionCategory":"","ArticlePicture":[],"TitleCN":null,"AbstractTextCN":null,"PMCID":"","EPubDate":null,"PubModel":null,"JCR":null,"JCRName":null,"Score":null,"Total":0}
Pub Date : 2024-02-19DOI: 10.33100/tckhxhnv9.6.luuhonvu
Bài viết sử dụng phương pháp điều tra bằng bảng hỏi, khảo sát tình hình sử dụng chiến lược học tập từ vựng của 211 sinh viên ngành Ngôn ngữ Trung Quốc tại Trường Đại học Ngoại ngữ - Tin học Thành phố Hồ Chí Minh. Kết quả cho thấy, sinh viên có tần suất sử dụng nhóm chiến lược nhận thức thường xuyên hơn nhóm chiến lược siêu nhận thức. Khi gặp từ mới, sinh viên thường có khuynh hướng tra từ điển để hiểu nghĩa của từ đó, việc dự đoán nghĩa của sinh viên chủ yếu dựa vào ngữ cảnh và kiến thức nền. Sinh viên ghi chú cả nghĩa và cách dùng của từ, tiến hành ghi nhớ từ chủ yếu bằng cách lặp đi lặp lại một cách máy móc. Nhân tố giới tính có ảnh hưởng đến việc sử dụng các chiến lược lập kế hoạch trong nhóm chiến lược siêu nhận thức. Nhân tố vùng miền có ảnh hưởng đến việc sử dụng các chiến lược chú ý có chọn lọc trong nhóm chiến lược siêu nhận thức. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, bài viết đưa ra một số kiến nghị cho việc giảng dạy từ vựng tiếng Trung Quốc.
{"title":"Chiến lược học tập từ vựng tiếng Trung Quốc của sinh viên Việt Nam: Trường hợp sinh viên Trường Đại học Ngoại ngữ - Tin học Thành phố Hồ Chí Minh","authors":"","doi":"10.33100/tckhxhnv9.6.luuhonvu","DOIUrl":"https://doi.org/10.33100/tckhxhnv9.6.luuhonvu","url":null,"abstract":"Bài viết sử dụng phương pháp điều tra bằng bảng hỏi, khảo sát tình hình sử dụng chiến lược học tập từ vựng của 211 sinh viên ngành Ngôn ngữ Trung Quốc tại Trường Đại học Ngoại ngữ - Tin học Thành phố Hồ Chí Minh. Kết quả cho thấy, sinh viên có tần suất sử dụng nhóm chiến lược nhận thức thường xuyên hơn nhóm chiến lược siêu nhận thức. Khi gặp từ mới, sinh viên thường có khuynh hướng tra từ điển để hiểu nghĩa của từ đó, việc dự đoán nghĩa của sinh viên chủ yếu dựa vào ngữ cảnh và kiến thức nền. Sinh viên ghi chú cả nghĩa và cách dùng của từ, tiến hành ghi nhớ từ chủ yếu bằng cách lặp đi lặp lại một cách máy móc. Nhân tố giới tính có ảnh hưởng đến việc sử dụng các chiến lược lập kế hoạch trong nhóm chiến lược siêu nhận thức. Nhân tố vùng miền có ảnh hưởng đến việc sử dụng các chiến lược chú ý có chọn lọc trong nhóm chiến lược siêu nhận thức. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, bài viết đưa ra một số kiến nghị cho việc giảng dạy từ vựng tiếng Trung Quốc.","PeriodicalId":507297,"journal":{"name":"Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn (VNU Journal of Social Sciences and Humanities)","volume":"19 23","pages":""},"PeriodicalIF":0.0,"publicationDate":"2024-02-19","publicationTypes":"Journal Article","fieldsOfStudy":null,"isOpenAccess":false,"openAccessPdf":"","citationCount":null,"resultStr":null,"platform":"Semanticscholar","paperid":"140450695","PeriodicalName":null,"FirstCategoryId":null,"ListUrlMain":null,"RegionNum":0,"RegionCategory":"","ArticlePicture":[],"TitleCN":null,"AbstractTextCN":null,"PMCID":"","EPubDate":null,"PubModel":null,"JCR":null,"JCRName":null,"Score":null,"Total":0}
Pub Date : 2024-02-19DOI: 10.33100/tckhxhnv9.6.nguyenhuuson
Năm 1831, nhà Nguyễn thành lập tỉnh Hà Nội, đặt trụ sở tỉnh tại thành Thăng Long. Năm 1888, Pháp tách một phần tỉnh Hà Nội để lập thành phố Hà Nội. Vì vậy, tỉnh lỵ Hà Nội được di dời về làng Cầu Đơ, huyện Thanh Oai, phủ Ứng Hòa. Cũng vì thế, tên tỉnh Hà Nội được đổi thành tỉnh Cầu Đơ (1902), rồi tỉnh Hà Đông (1904). Sau khi thành tỉnh lỵ, vùng đất Cầu Đơ được người Pháp xây dựng theo mô hình thành phố Hà Nội thu nhỏ, mà khi đó Hà Nội đang được kiến thiết theo kiểu đô thị phương Tây. Sau 112 năm (1896-2008) giữ vai trò tỉnh lỵ, vùng Cầu Đơ từ đô thị loại III trở thành một phần của đô thị đặc biệt.
{"title":"Làng Cầu Đơ: Từ tỉnh lỵ Hà Nội đến thủ phủ của tỉnh Cầu Đơ và tỉnh Hà Đông","authors":"","doi":"10.33100/tckhxhnv9.6.nguyenhuuson","DOIUrl":"https://doi.org/10.33100/tckhxhnv9.6.nguyenhuuson","url":null,"abstract":"Năm 1831, nhà Nguyễn thành lập tỉnh Hà Nội, đặt trụ sở tỉnh tại thành Thăng Long. Năm 1888, Pháp tách một phần tỉnh Hà Nội để lập thành phố Hà Nội. Vì vậy, tỉnh lỵ Hà Nội được di dời về làng Cầu Đơ, huyện Thanh Oai, phủ Ứng Hòa. Cũng vì thế, tên tỉnh Hà Nội được đổi thành tỉnh Cầu Đơ (1902), rồi tỉnh Hà Đông (1904). Sau khi thành tỉnh lỵ, vùng đất Cầu Đơ được người Pháp xây dựng theo mô hình thành phố Hà Nội thu nhỏ, mà khi đó Hà Nội đang được kiến thiết theo kiểu đô thị phương Tây. Sau 112 năm (1896-2008) giữ vai trò tỉnh lỵ, vùng Cầu Đơ từ đô thị loại III trở thành một phần của đô thị đặc biệt.","PeriodicalId":507297,"journal":{"name":"Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn (VNU Journal of Social Sciences and Humanities)","volume":"15 2","pages":""},"PeriodicalIF":0.0,"publicationDate":"2024-02-19","publicationTypes":"Journal Article","fieldsOfStudy":null,"isOpenAccess":false,"openAccessPdf":"","citationCount":null,"resultStr":null,"platform":"Semanticscholar","paperid":"140450757","PeriodicalName":null,"FirstCategoryId":null,"ListUrlMain":null,"RegionNum":0,"RegionCategory":"","ArticlePicture":[],"TitleCN":null,"AbstractTextCN":null,"PMCID":"","EPubDate":null,"PubModel":null,"JCR":null,"JCRName":null,"Score":null,"Total":0}
Pub Date : 2024-02-19DOI: 10.33100/tckhxhnv9.6.nguyengiao
Nhà tập thể là một trong những “công thức nhào nặn lại ý thức xã hội”, như cách nói của học giả Nga Azarova (2001), trong thời kỳ xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc Việt Nam. Đến giai đoạn sau năm 1986, Đổi mới mang theo tinh thần của kinh tế thị trường vào khu tập thể, tạo thành một bức tranh với sự đan xen của nhiều mảng màu. Trong bối cảnh đó, đáng chú ý là những ràng buộc của các quan điểm trong quá khứ cũng như sự thiếu hụt các loại vốn đã làm giảm thiểu cơ hội của cư dân của các khu tập thể cũ trong việc tiếp cận nền kinh tế thị trường nhằm cải thiện cuộc sống. Tuy nhiên, tính năng động của một bộ phận cư dân ở các khu tập thể trong quá trình chuyển đổi đã giúp họ thích ứng với sức ép “đạo đức” của các quan điểm cũ để thỏa mãn được nhu cầu về đa dạng sinh kế. Bài viết tập trung phân tích sự thích ứng này của một bộ phận cư dân các khu tập thể cũ, những người chịu ảnh hưởng mạnh bởi thành phần xuất thân, nhằm hòa vào nền kinh tế thị trường theo cách riêng. Quá trình thích ứng ấy cũng cho thấy sự vận động về tư tưởng diễn ra trong các khu tập thể cũ - nơi một thời vốn được coi là biểu tượng của xã hội xã hội chủ nghĩa - trong giai đoạn chuyển đổi.
Nga Azarova (2001)说:"在越南,你的名字是什么?1986年,Đêi ổới mango tinh thần của kinh tế thịtrường vào khu tập thương, tạnh mộtčưngčưng......。这就是我们的生活、它的名字是 "泉",它的意思是 "被唤醒的"。如果你不知道你的名字,你可以告訴我你的名字是什麼。Tuy nhiên、儘管如此,您仍可通過"...... "或"...... "這兩個詞語來詮釋"......"。你可以在你的網站上找到一些信息,例如:"你是誰"、"你是誰"、"你是誰"、"你是誰"、"你是誰"、"你是誰"、"你是誰"、"你是誰"、"你是誰"、"你是誰"、"你是誰"、"你是誰"、"你是誰"、"你是誰"、"你是誰"、"你是誰"、"你是誰"、"你是誰"、"你是誰"、"你是誰 "等等。你可以選擇在你的網站中輸入一個或多個詞彙,或在你的網站中輸入一個或多個詞彙,或在你的網站中輸入一個或多個詞彙。
{"title":"Sự thích ứng của cư dân các khu tập thể cũ ở Hà Nội trong việc tham gia vào nền kinh tế thị trường giai đoạn đầu sau Đổi mới","authors":"","doi":"10.33100/tckhxhnv9.6.nguyengiao","DOIUrl":"https://doi.org/10.33100/tckhxhnv9.6.nguyengiao","url":null,"abstract":"Nhà tập thể là một trong những “công thức nhào nặn lại ý thức xã hội”, như cách nói của học giả Nga Azarova (2001), trong thời kỳ xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc Việt Nam. Đến giai đoạn sau năm 1986, Đổi mới mang theo tinh thần của kinh tế thị trường vào khu tập thể, tạo thành một bức tranh với sự đan xen của nhiều mảng màu. Trong bối cảnh đó, đáng chú ý là những ràng buộc của các quan điểm trong quá khứ cũng như sự thiếu hụt các loại vốn đã làm giảm thiểu cơ hội của cư dân của các khu tập thể cũ trong việc tiếp cận nền kinh tế thị trường nhằm cải thiện cuộc sống. Tuy nhiên, tính năng động của một bộ phận cư dân ở các khu tập thể trong quá trình chuyển đổi đã giúp họ thích ứng với sức ép “đạo đức” của các quan điểm cũ để thỏa mãn được nhu cầu về đa dạng sinh kế. Bài viết tập trung phân tích sự thích ứng này của một bộ phận cư dân các khu tập thể cũ, những người chịu ảnh hưởng mạnh bởi thành phần xuất thân, nhằm hòa vào nền kinh tế thị trường theo cách riêng. Quá trình thích ứng ấy cũng cho thấy sự vận động về tư tưởng diễn ra trong các khu tập thể cũ - nơi một thời vốn được coi là biểu tượng của xã hội xã hội chủ nghĩa - trong giai đoạn chuyển đổi.","PeriodicalId":507297,"journal":{"name":"Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn (VNU Journal of Social Sciences and Humanities)","volume":"1 3","pages":""},"PeriodicalIF":0.0,"publicationDate":"2024-02-19","publicationTypes":"Journal Article","fieldsOfStudy":null,"isOpenAccess":false,"openAccessPdf":"","citationCount":null,"resultStr":null,"platform":"Semanticscholar","paperid":"139959116","PeriodicalName":null,"FirstCategoryId":null,"ListUrlMain":null,"RegionNum":0,"RegionCategory":"","ArticlePicture":[],"TitleCN":null,"AbstractTextCN":null,"PMCID":"","EPubDate":null,"PubModel":null,"JCR":null,"JCRName":null,"Score":null,"Total":0}
Pub Date : 2024-02-19DOI: 10.33100/tckhxhnv9.6.lengocphuongtrinh-nguyenthikimtien
Thực hiện mục tiêu đổi mới toàn diện giáo dục trong nhà trường, chương trình sách giáo khoa Ngữ văn 6 hướng đến mục tiêu giúp học sinh chủ động và khai thác năng lực của bản thân, tạo ra những chân trời tri nhận mới. Để định hướng và phát triển năng lực cho học sinh, trong đó có năng lực đọc, giáo viên xác định hoạt động đọc hiểu là cấp độ quan trọng trong quá trình dạy văn bản văn học, đặc biệt đối với đối tượng học sinh cấp trung học cơ sở. Tiếp cận thi pháp học cụ thể là thi pháp thể loại trong dạy đọc hiểu là cách thức tổ chức dạy học phù hợp, trong đó, lấy hình thức nghệ thuật của tác phẩm làm trung tâm để giải mã và tìm ra tính nội dung của văn bản. Xuất phát từ mục tiêu dạy bài đọc Tuổi thơ tôi (Ngữ văn 6, tập 2, bộ Chân trời sáng tạo) của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh, ở bài viết này, chúng tôi tiến hành tiếp cận lý thuyết thi pháp theo thể loại tự sự khi dạy học đọc - hiểu văn bản này qua cách thức xây dựng nhân vật và ngôn ngữ kể chuyện. Qua đó, học sinh được tiếp cận và tham gia các hoạt động mang tính chủ động, phát huy năng lực đọc, tích cực hoá hoạt động học tập trong việc tiếp nhận văn bản văn học.
Thực hiện mục tiêu đổi mới toàn diện giáo dục trong nhà trường、在吳家村的第 6 個莊園裡,有一個小莊園,莊園裡有一個小莊園,莊園裡有一個小莊園,莊園裡有一個小莊園,莊園裡有一個小莊園,莊園裡有一個小莊園,莊園裡有一個小莊園,莊園裡有一個小莊園,莊園裡有一個小莊園,莊園裡有一個小莊園,莊園裡有一個小莊園,莊園裡有一個小莊園,莊園裡有一個小莊園,莊園裡有一個小莊園。Đểđịhưng(字符)和ĐđịhÇng(字符)的三个汉字,通过ĐđịhÇng(字符)和ĐđịhÇng(字符)的三个汉字、它的意思是 "你的"、"你的"、"你的"、"你的"、"你的"、"你的"、"你的"、"你的"、"你的"、"你的"、"你的"、"你的"、"你的"、"你的"、"你的"、"你的"、"你的"、"你的"、"你的"。当您在您的网站上看到这些信息时,您会感到非常高兴、在这一过程中,你会感觉到,你的工作是让你的孩子在你的房间里玩耍,而不是让你的孩子在你的房间里玩耍。徐氏詞彙的意思是:"(Ngữăn 6, tập 2, bộ Chân trời sáng tạo) ủa nhà văn Nguễn, ở biết này、汉字是一种特殊的字符,它可以用来表示一个或多个汉字,也可以用来表示一个或多个汉字。在此,我想向您介绍一个新的汉字,它是一个以 "汉字 "和 "拼音 "为基础的汉字。
{"title":"Dạy đọc văn bản Tuổi thơ tôi của Nguyễn Nhật Ánh (Ngữ văn 6, bộ sách Chân trời sáng tạo) từ hướng tiếp cận thi pháp thể loại","authors":"","doi":"10.33100/tckhxhnv9.6.lengocphuongtrinh-nguyenthikimtien","DOIUrl":"https://doi.org/10.33100/tckhxhnv9.6.lengocphuongtrinh-nguyenthikimtien","url":null,"abstract":"Thực hiện mục tiêu đổi mới toàn diện giáo dục trong nhà trường, chương trình sách giáo khoa Ngữ văn 6 hướng đến mục tiêu giúp học sinh chủ động và khai thác năng lực của bản thân, tạo ra những chân trời tri nhận mới. Để định hướng và phát triển năng lực cho học sinh, trong đó có năng lực đọc, giáo viên xác định hoạt động đọc hiểu là cấp độ quan trọng trong quá trình dạy văn bản văn học, đặc biệt đối với đối tượng học sinh cấp trung học cơ sở. Tiếp cận thi pháp học cụ thể là thi pháp thể loại trong dạy đọc hiểu là cách thức tổ chức dạy học phù hợp, trong đó, lấy hình thức nghệ thuật của tác phẩm làm trung tâm để giải mã và tìm ra tính nội dung của văn bản. Xuất phát từ mục tiêu dạy bài đọc Tuổi thơ tôi (Ngữ văn 6, tập 2, bộ Chân trời sáng tạo) của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh, ở bài viết này, chúng tôi tiến hành tiếp cận lý thuyết thi pháp theo thể loại tự sự khi dạy học đọc - hiểu văn bản này qua cách thức xây dựng nhân vật và ngôn ngữ kể chuyện. Qua đó, học sinh được tiếp cận và tham gia các hoạt động mang tính chủ động, phát huy năng lực đọc, tích cực hoá hoạt động học tập trong việc tiếp nhận văn bản văn học.","PeriodicalId":507297,"journal":{"name":"Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn (VNU Journal of Social Sciences and Humanities)","volume":"9 8","pages":""},"PeriodicalIF":0.0,"publicationDate":"2024-02-19","publicationTypes":"Journal Article","fieldsOfStudy":null,"isOpenAccess":false,"openAccessPdf":"","citationCount":null,"resultStr":null,"platform":"Semanticscholar","paperid":"139958645","PeriodicalName":null,"FirstCategoryId":null,"ListUrlMain":null,"RegionNum":0,"RegionCategory":"","ArticlePicture":[],"TitleCN":null,"AbstractTextCN":null,"PMCID":"","EPubDate":null,"PubModel":null,"JCR":null,"JCRName":null,"Score":null,"Total":0}