Nghiên cứu nhằm mục tiêu xem xét các kết nối trong kinh doanh ảnh hưởng đến kết quả xuất khẩu của các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) tại Việt Nam như thế nào thông qua sử dụng dữ liệu từ Tổ chức Nghiên cứu Châu Âu khảo sát 2.628 DNNVV đang hoạt động trong 18 lĩnh vực sản xuất và dịch vụ trên 10 tỉnh thành tại Việt Nam. Mô hình hồi quy OLS được sử dụng để kiểm định vai trò của các kết nối trong kinh doanh và các yếu tố kiểm soát khác đến kết quả xuất khẩu của các DNNVV. Kết quả cho thấy, các doanh nghiệp kết nối nhiều đơn vị khác lĩnh vực và các tổ chức tài chính sẽ làm giảm kết quả xuất khẩu. Ngoài ra, các yếu tố như quy mô doanh nghiệp, mức độ đầu tư vào R&D, kết nối chính trị và thuê ngoài cũng ảnh hưởng đến kết quả xuất khẩu. Từ đó, bài viết đề xuất một số hàm ý hỗ trợ tăng cường kết quả xuất khẩu cho các DNNVV tại Việt Nam.
{"title":"Vai trò của kết nối trong kinh doanh đối với kết quả xuất khẩu của doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam","authors":"Võ Văn Dứt","doi":"10.57110/jebvn.v3i3.228","DOIUrl":"https://doi.org/10.57110/jebvn.v3i3.228","url":null,"abstract":"Nghiên cứu nhằm mục tiêu xem xét các kết nối trong kinh doanh ảnh hưởng đến kết quả xuất khẩu của các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) tại Việt Nam như thế nào thông qua sử dụng dữ liệu từ Tổ chức Nghiên cứu Châu Âu khảo sát 2.628 DNNVV đang hoạt động trong 18 lĩnh vực sản xuất và dịch vụ trên 10 tỉnh thành tại Việt Nam. Mô hình hồi quy OLS được sử dụng để kiểm định vai trò của các kết nối trong kinh doanh và các yếu tố kiểm soát khác đến kết quả xuất khẩu của các DNNVV. Kết quả cho thấy, các doanh nghiệp kết nối nhiều đơn vị khác lĩnh vực và các tổ chức tài chính sẽ làm giảm kết quả xuất khẩu. Ngoài ra, các yếu tố như quy mô doanh nghiệp, mức độ đầu tư vào R&D, kết nối chính trị và thuê ngoài cũng ảnh hưởng đến kết quả xuất khẩu. Từ đó, bài viết đề xuất một số hàm ý hỗ trợ tăng cường kết quả xuất khẩu cho các DNNVV tại Việt Nam.","PeriodicalId":270329,"journal":{"name":"VNU JOURNAL OF ECONOMICS AND BUSINESS","volume":"15 1","pages":"0"},"PeriodicalIF":0.0,"publicationDate":"2023-06-25","publicationTypes":"Journal Article","fieldsOfStudy":null,"isOpenAccess":false,"openAccessPdf":"","citationCount":null,"resultStr":null,"platform":"Semanticscholar","paperid":"133493089","PeriodicalName":null,"FirstCategoryId":null,"ListUrlMain":null,"RegionNum":0,"RegionCategory":"","ArticlePicture":[],"TitleCN":null,"AbstractTextCN":null,"PMCID":"","EPubDate":null,"PubModel":null,"JCR":null,"JCRName":null,"Score":null,"Total":0}
Quản trị nguồn nhân lực (QTNNL) xanh đang trở thành chủ đề thu hút các nhà nghiên cứu ở nhiều quốc gia trên thế giới. Tại Việt Nam, chủ đề này bước đầu được nghiên cứu và chưa có nhiều doanh nghiệp áp dụng. Mục đích của bài viết nhằm làm rõ nội hàm của QTNNL xanh và các tiêu chí áp dụng QTNNL xanh trong doanh nghiệp. Sử dụng phương pháp nghiên cứu tại bàn và phỏng vấn chuyên gia, bài viết tổng hợp và đề xuất các tiêu chí đo lường QTNNL xanh cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) Việt Nam, tập trung vào các chức năng chính bao gồm: Thiết kế và phân tích công việc xanh; tuyển dụng xanh; đào tạo và phát triển xanh; quản lý hiệu suất xanh; đãi ngộ và kỷ luật xanh; quản lý lao động xanh. Các tiêu chí này giúp định hướng cho doanh nghiệp trong quá trình áp dụng, đồng thời gợi mở cho các nghiên cứu sâu hơn về QTNNL xanh tại Việt Nam.
{"title":"Quản trị nguồn nhân lực xanh: Đề xuất các tiêu chí đo lường cho doanh nghiệp Việt Nam","authors":"Đặng Thị Thu Hương","doi":"10.57110/jebvn.v3i3.183","DOIUrl":"https://doi.org/10.57110/jebvn.v3i3.183","url":null,"abstract":"Quản trị nguồn nhân lực (QTNNL) xanh đang trở thành chủ đề thu hút các nhà nghiên cứu ở nhiều quốc gia trên thế giới. Tại Việt Nam, chủ đề này bước đầu được nghiên cứu và chưa có nhiều doanh nghiệp áp dụng. Mục đích của bài viết nhằm làm rõ nội hàm của QTNNL xanh và các tiêu chí áp dụng QTNNL xanh trong doanh nghiệp. Sử dụng phương pháp nghiên cứu tại bàn và phỏng vấn chuyên gia, bài viết tổng hợp và đề xuất các tiêu chí đo lường QTNNL xanh cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) Việt Nam, tập trung vào các chức năng chính bao gồm: Thiết kế và phân tích công việc xanh; tuyển dụng xanh; đào tạo và phát triển xanh; quản lý hiệu suất xanh; đãi ngộ và kỷ luật xanh; quản lý lao động xanh. Các tiêu chí này giúp định hướng cho doanh nghiệp trong quá trình áp dụng, đồng thời gợi mở cho các nghiên cứu sâu hơn về QTNNL xanh tại Việt Nam.","PeriodicalId":270329,"journal":{"name":"VNU JOURNAL OF ECONOMICS AND BUSINESS","volume":"18 1","pages":"0"},"PeriodicalIF":0.0,"publicationDate":"2023-06-25","publicationTypes":"Journal Article","fieldsOfStudy":null,"isOpenAccess":false,"openAccessPdf":"","citationCount":null,"resultStr":null,"platform":"Semanticscholar","paperid":"114631696","PeriodicalName":null,"FirstCategoryId":null,"ListUrlMain":null,"RegionNum":0,"RegionCategory":"","ArticlePicture":[],"TitleCN":null,"AbstractTextCN":null,"PMCID":"","EPubDate":null,"PubModel":null,"JCR":null,"JCRName":null,"Score":null,"Total":0}
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, Việt Nam đã và đang tham gia ký kết hàng loạt hiệp định thương mại tự do với các quốc gia, từ đó mang lại nhiều cơ hội cũng như thách thức đối với thị trường trong nước, trong đó có thị trường thức ăn chăn nuôi. Do phụ thuộc nhiều vào nguồn nhập khẩu, ngành thức ăn chăn nuôi Việt Nam cũng như các doanh nghiệp ngành này chịu tác động rất lớn từ những biến động trên thị trường quốc tế. Trong bối cảnh hội nhập, ngành này đòi hỏi phải có sự chuyển đổi kịp thời để sản xuất, kinh doanh hiệu quả hơn. Trên cơ sở sử dụng dữ liệu thứ cấp, bài viết đánh giá thực trạng thị trường và hoạt động sản xuất thức ăn chăn nuôi của Việt Nam giai đoạn 2019-2022 dưới tác động của các hiệp định thương mại tự do và đề xuất các giải pháp phát triển ngành sản xuất thức ăn chăn nuôi nhằm góp phần phát triển ngành bền vững.
{"title":"Thị trường thức ăn chăn nuôi Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế","authors":"Nguyễn Đức Hải","doi":"10.57110/jebvn.v3i3.221","DOIUrl":"https://doi.org/10.57110/jebvn.v3i3.221","url":null,"abstract":"Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, Việt Nam đã và đang tham gia ký kết hàng loạt hiệp định thương mại tự do với các quốc gia, từ đó mang lại nhiều cơ hội cũng như thách thức đối với thị trường trong nước, trong đó có thị trường thức ăn chăn nuôi. Do phụ thuộc nhiều vào nguồn nhập khẩu, ngành thức ăn chăn nuôi Việt Nam cũng như các doanh nghiệp ngành này chịu tác động rất lớn từ những biến động trên thị trường quốc tế. Trong bối cảnh hội nhập, ngành này đòi hỏi phải có sự chuyển đổi kịp thời để sản xuất, kinh doanh hiệu quả hơn. Trên cơ sở sử dụng dữ liệu thứ cấp, bài viết đánh giá thực trạng thị trường và hoạt động sản xuất thức ăn chăn nuôi của Việt Nam giai đoạn 2019-2022 dưới tác động của các hiệp định thương mại tự do và đề xuất các giải pháp phát triển ngành sản xuất thức ăn chăn nuôi nhằm góp phần phát triển ngành bền vững.","PeriodicalId":270329,"journal":{"name":"VNU JOURNAL OF ECONOMICS AND BUSINESS","volume":"13 3 1","pages":"0"},"PeriodicalIF":0.0,"publicationDate":"2023-06-25","publicationTypes":"Journal Article","fieldsOfStudy":null,"isOpenAccess":false,"openAccessPdf":"","citationCount":null,"resultStr":null,"platform":"Semanticscholar","paperid":"124610624","PeriodicalName":null,"FirstCategoryId":null,"ListUrlMain":null,"RegionNum":0,"RegionCategory":"","ArticlePicture":[],"TitleCN":null,"AbstractTextCN":null,"PMCID":"","EPubDate":null,"PubModel":null,"JCR":null,"JCRName":null,"Score":null,"Total":0}
Nghiên cứu xác định các yếu tố thuộc tính sản phẩm ảnh hưởng đến sự sẵn lòng chi trả của người tiêu dùng đối với cam hữu cơ tại thành phố Long Xuyên, đồng thời ước lượng mức sẵn lòng chi trả thêm của người tiêu dùng cho từng thuộc tính sản phẩm. Phương pháp thí nghiệm lựa chọn (CE) được sử dụng để phân tích hành vi tiêu dùng cam hữu cơ của các hộ gia đình, với nguồn dữ liệu gồm 171 người tiêu dùng đại diện hộ gia đình ở thành thị tại thành phố Long Xuyên từ tháng 4/2021 đến tháng 6/2021. Mô hình hồi quy Logit có điều kiện (CL) được sử dụng để ước lượng mức sẵn lòng chi trả của người tiêu dùng cho các thuộc tính sản phẩm. Kết quả nghiên cứu cho thấy, các yếu tố tác động đồng biến đến sự sẵn lòng chi trả của người tiêu dùng bao gồm: hạng chất lượng, mã code truy xuất nguồn gốc, nhãn chứng nhận hữu cơ, hàm lượng hữu cơ. Bên cạnh đó, yếu tố giá có tác động nghịch biến đến sự thỏa dụng của người tiêu dùng và mức sẵn lòng chi trả thêm tương ứng từ cao nhất đến thấp nhất bao gồm hàm lượng hữu cơ, nhãn chứng nhận hữu cơ, mã code truy xuất nguồn gốc, hạng chất lượng.
{"title":"Sự sẵn lòng chi trả của hộ gia đình ở thành thị đối với sản phẩm hữu cơ: Trường hợp cam hữu cơ tại thành phố Long Xuyên","authors":"Hồ Bạch Nhật, Võ Văn Dứt","doi":"10.57110/jebvn.v3i1.167","DOIUrl":"https://doi.org/10.57110/jebvn.v3i1.167","url":null,"abstract":"Nghiên cứu xác định các yếu tố thuộc tính sản phẩm ảnh hưởng đến sự sẵn lòng chi trả của người tiêu dùng đối với cam hữu cơ tại thành phố Long Xuyên, đồng thời ước lượng mức sẵn lòng chi trả thêm của người tiêu dùng cho từng thuộc tính sản phẩm. Phương pháp thí nghiệm lựa chọn (CE) được sử dụng để phân tích hành vi tiêu dùng cam hữu cơ của các hộ gia đình, với nguồn dữ liệu gồm 171 người tiêu dùng đại diện hộ gia đình ở thành thị tại thành phố Long Xuyên từ tháng 4/2021 đến tháng 6/2021. Mô hình hồi quy Logit có điều kiện (CL) được sử dụng để ước lượng mức sẵn lòng chi trả của người tiêu dùng cho các thuộc tính sản phẩm. Kết quả nghiên cứu cho thấy, các yếu tố tác động đồng biến đến sự sẵn lòng chi trả của người tiêu dùng bao gồm: hạng chất lượng, mã code truy xuất nguồn gốc, nhãn chứng nhận hữu cơ, hàm lượng hữu cơ. Bên cạnh đó, yếu tố giá có tác động nghịch biến đến sự thỏa dụng của người tiêu dùng và mức sẵn lòng chi trả thêm tương ứng từ cao nhất đến thấp nhất bao gồm hàm lượng hữu cơ, nhãn chứng nhận hữu cơ, mã code truy xuất nguồn gốc, hạng chất lượng.","PeriodicalId":270329,"journal":{"name":"VNU JOURNAL OF ECONOMICS AND BUSINESS","volume":"42 3 1","pages":"0"},"PeriodicalIF":0.0,"publicationDate":"2023-02-24","publicationTypes":"Journal Article","fieldsOfStudy":null,"isOpenAccess":false,"openAccessPdf":"","citationCount":null,"resultStr":null,"platform":"Semanticscholar","paperid":"116310687","PeriodicalName":null,"FirstCategoryId":null,"ListUrlMain":null,"RegionNum":0,"RegionCategory":"","ArticlePicture":[],"TitleCN":null,"AbstractTextCN":null,"PMCID":"","EPubDate":null,"PubModel":null,"JCR":null,"JCRName":null,"Score":null,"Total":0}
Hoàng Đàm Lương Thúy, Nguyễn Minh Hào, Tống Khánh Linh, Lê Thị Mai Hương
Trong giai đoạn bùng nổ của internet và diễn biến phức tạp của đại dịch COVID-19, dịch vụ gọi xe công nghệ được coi như một giải pháp hữu ích cho khách hàng trên nhiều khía cạnh. Với mục đích tìm hiểu các yếu tố tác động đến ý định sử dụng dịch vụ gọi xe công nghệ của khách hàng, nghiên cứu kết hợp lý thuyết hành vi hoạch định (TPB), mô hình chấp nhận công nghệ (TAM) và các yếu tố khác để đánh giá ý định chấp nhận công nghệ của khách hàng Hà Nội trong đại dịch COVID-19. Nghiên cứu sử dụng phương pháp phân tích dữ liệu định lượng bằng phần mềm SPSS 26 từ 175 đối tượng khảo sát tại Hà Nội trong giai đoạn tháng 2/2022 - 3/2022. Kết quả nghiên cứu cho thấy ba yếu tố tác động đến ý định sử dụng dịch vụ gọi xe công nghệ gồm: Chuẩn chủ quan, Lợi ích kinh tế và Nhận thức rủi ro. Trong đó, chuẩn chủ quan và lợi ích kinh tế có tác động tích cực, còn nhận thức rủi ro tác động tiêu cực đến ý định của khách hàng trong thời gian dịch bệnh. Từ đó, nghiên cứu đề xuất một số kiến nghị cho các nhà quản lý dịch vụ gọi xe công nghệ cũng như các nhà nghiên cứu nhằm phát triển xu hướng dịch vụ gọi xe công nghệ và nâng cao ý định sử dụng của khách hàng Hà Nội, đặc biệt trong bối cảnh phục hồi nền kinh tế sau đại dịch COVID-19.
{"title":"Ý định sử dụng dịch vụ gọi xe công nghệ của khách hàng Hà Nội trong đại dịch COVID-19","authors":"Hoàng Đàm Lương Thúy, Nguyễn Minh Hào, Tống Khánh Linh, Lê Thị Mai Hương","doi":"10.57110/jebvn.v3i1.162","DOIUrl":"https://doi.org/10.57110/jebvn.v3i1.162","url":null,"abstract":"Trong giai đoạn bùng nổ của internet và diễn biến phức tạp của đại dịch COVID-19, dịch vụ gọi xe công nghệ được coi như một giải pháp hữu ích cho khách hàng trên nhiều khía cạnh. Với mục đích tìm hiểu các yếu tố tác động đến ý định sử dụng dịch vụ gọi xe công nghệ của khách hàng, nghiên cứu kết hợp lý thuyết hành vi hoạch định (TPB), mô hình chấp nhận công nghệ (TAM) và các yếu tố khác để đánh giá ý định chấp nhận công nghệ của khách hàng Hà Nội trong đại dịch COVID-19. Nghiên cứu sử dụng phương pháp phân tích dữ liệu định lượng bằng phần mềm SPSS 26 từ 175 đối tượng khảo sát tại Hà Nội trong giai đoạn tháng 2/2022 - 3/2022. Kết quả nghiên cứu cho thấy ba yếu tố tác động đến ý định sử dụng dịch vụ gọi xe công nghệ gồm: Chuẩn chủ quan, Lợi ích kinh tế và Nhận thức rủi ro. Trong đó, chuẩn chủ quan và lợi ích kinh tế có tác động tích cực, còn nhận thức rủi ro tác động tiêu cực đến ý định của khách hàng trong thời gian dịch bệnh. Từ đó, nghiên cứu đề xuất một số kiến nghị cho các nhà quản lý dịch vụ gọi xe công nghệ cũng như các nhà nghiên cứu nhằm phát triển xu hướng dịch vụ gọi xe công nghệ và nâng cao ý định sử dụng của khách hàng Hà Nội, đặc biệt trong bối cảnh phục hồi nền kinh tế sau đại dịch COVID-19.","PeriodicalId":270329,"journal":{"name":"VNU JOURNAL OF ECONOMICS AND BUSINESS","volume":"17 1","pages":"0"},"PeriodicalIF":0.0,"publicationDate":"2023-02-24","publicationTypes":"Journal Article","fieldsOfStudy":null,"isOpenAccess":false,"openAccessPdf":"","citationCount":null,"resultStr":null,"platform":"Semanticscholar","paperid":"132675122","PeriodicalName":null,"FirstCategoryId":null,"ListUrlMain":null,"RegionNum":0,"RegionCategory":"","ArticlePicture":[],"TitleCN":null,"AbstractTextCN":null,"PMCID":"","EPubDate":null,"PubModel":null,"JCR":null,"JCRName":null,"Score":null,"Total":0}
Nghiên cứu nhằm khám phá các yếu tố ảnh hưởng đến duy trì đội ngũ nhân viên nòng cốt tại các trung tâm y tế trực thuộc Sở Y tế Hà Nội. Nghiên cứu sử dụng mô hình phương trình cấu trúc bình phương nhỏ nhất từng phần (PLS-SEM) để kiểm định sự phù hợp của mô hình và các giả thuyết nghiên cứu với dữ liệu thu thập được từ 387 nhân viên nòng cốt tại 29 trung tâm y tế quận, huyện của Hà Nội. Kết quả cho thấy 8 yếu tố gồm bản chất công việc, điều kiện làm việc, đào tạo và thăng tiến, quan hệ với cấp trên, quan hệ với đồng nghiệp, sự ghi nhận của tổ chức, thu nhập và phúc lợi, văn hóa tổ chức có tác động tích cực đáng kể đến duy trì đội ngũ nhân viên y tế nòng cốt. Trong đó, yếu tố đào tạo và thăng tiến có tác động mạnh nhất và yếu tố quan hệ với đồng nghiệp có tác động yếu nhất đến duy trì đội ngũ nhân viên y tế nòng cốt. Từ kết quả nghiên cứu, một số hàm ý quản trị quan trọng đã được gợi mở để giúp nhà lãnh đạo của các trung tâm y tế quận, huyện cải thiện các khía cạnh, từ đó nâng cao hiệu quả duy trì đội ngũ nhân viên y tế nòng cốt.
{"title":"Các yếu tố ảnh hưởng đến duy trì đội ngũ nhân viên nòng cốt tại các trung tâm y tế trực thuộc Sở Y tế Hà Nội","authors":"Nguyễn Danh Nam, Uông Thị Ngọc Lan","doi":"10.57110/jebvn.v3i1.161","DOIUrl":"https://doi.org/10.57110/jebvn.v3i1.161","url":null,"abstract":"Nghiên cứu nhằm khám phá các yếu tố ảnh hưởng đến duy trì đội ngũ nhân viên nòng cốt tại các trung tâm y tế trực thuộc Sở Y tế Hà Nội. Nghiên cứu sử dụng mô hình phương trình cấu trúc bình phương nhỏ nhất từng phần (PLS-SEM) để kiểm định sự phù hợp của mô hình và các giả thuyết nghiên cứu với dữ liệu thu thập được từ 387 nhân viên nòng cốt tại 29 trung tâm y tế quận, huyện của Hà Nội. Kết quả cho thấy 8 yếu tố gồm bản chất công việc, điều kiện làm việc, đào tạo và thăng tiến, quan hệ với cấp trên, quan hệ với đồng nghiệp, sự ghi nhận của tổ chức, thu nhập và phúc lợi, văn hóa tổ chức có tác động tích cực đáng kể đến duy trì đội ngũ nhân viên y tế nòng cốt. Trong đó, yếu tố đào tạo và thăng tiến có tác động mạnh nhất và yếu tố quan hệ với đồng nghiệp có tác động yếu nhất đến duy trì đội ngũ nhân viên y tế nòng cốt. Từ kết quả nghiên cứu, một số hàm ý quản trị quan trọng đã được gợi mở để giúp nhà lãnh đạo của các trung tâm y tế quận, huyện cải thiện các khía cạnh, từ đó nâng cao hiệu quả duy trì đội ngũ nhân viên y tế nòng cốt.","PeriodicalId":270329,"journal":{"name":"VNU JOURNAL OF ECONOMICS AND BUSINESS","volume":"25 1","pages":"0"},"PeriodicalIF":0.0,"publicationDate":"2023-02-24","publicationTypes":"Journal Article","fieldsOfStudy":null,"isOpenAccess":false,"openAccessPdf":"","citationCount":null,"resultStr":null,"platform":"Semanticscholar","paperid":"121431248","PeriodicalName":null,"FirstCategoryId":null,"ListUrlMain":null,"RegionNum":0,"RegionCategory":"","ArticlePicture":[],"TitleCN":null,"AbstractTextCN":null,"PMCID":"","EPubDate":null,"PubModel":null,"JCR":null,"JCRName":null,"Score":null,"Total":0}
None Đặng Trung Tuyến, None Nguyễn Thị Hồng, None Nguyễn Thị Thu Hoài
Bài viết phân tích mối quan hệ giữa hai mặt hàng nông sản chính của tỉnh Đắk Lắk (cà phê và hồ tiêu) bằng cách sử dụng kiểm định đồng liên kết, kiểm định quan hệ nhân quả Granger và mô hình VAR. Kết quả cho thấy không có mối quan hệ đồng liên kết giữa hai mặt hàng. Ngoài ra, chỉ có giá hồ tiêu là có mối quan hệ nhân quả Granger với giá cà phê xuất khẩu, nhưng điều ngược lại không xảy ra. Cuối cùng, nghiên cứu cho rằng giá cà phê và giá tiêu ngày hôm qua là biến số ảnh hưởng chặt chẽ nhất, có ảnh hưởng lớn nhất đến sự biến động của giá cà phê xuất khẩu và giá hồ tiêu trong các biến số. Kết quả nghiên cứu cung cấp thông tin cho nông dân, nhà xuất khẩu và các bên liên quan trong việc đầu tư và quản lý rủi ro, cũng như Chính phủ Việt Nam và chính quyền tỉnh Daklak trong việc hoạch định chính sách.
{"title":"Đánh giá mối quan hệ giữa hai hàng hóa nông nghiệp chủ yếu của tỉnh Đắk Lắk: Bằng chứng từ cà phê và hồ tiêu","authors":"None Đặng Trung Tuyến, None Nguyễn Thị Hồng, None Nguyễn Thị Thu Hoài","doi":"10.57110/jebvn.v3i1.165","DOIUrl":"https://doi.org/10.57110/jebvn.v3i1.165","url":null,"abstract":"Bài viết phân tích mối quan hệ giữa hai mặt hàng nông sản chính của tỉnh Đắk Lắk (cà phê và hồ tiêu) bằng cách sử dụng kiểm định đồng liên kết, kiểm định quan hệ nhân quả Granger và mô hình VAR. Kết quả cho thấy không có mối quan hệ đồng liên kết giữa hai mặt hàng. Ngoài ra, chỉ có giá hồ tiêu là có mối quan hệ nhân quả Granger với giá cà phê xuất khẩu, nhưng điều ngược lại không xảy ra. Cuối cùng, nghiên cứu cho rằng giá cà phê và giá tiêu ngày hôm qua là biến số ảnh hưởng chặt chẽ nhất, có ảnh hưởng lớn nhất đến sự biến động của giá cà phê xuất khẩu và giá hồ tiêu trong các biến số. Kết quả nghiên cứu cung cấp thông tin cho nông dân, nhà xuất khẩu và các bên liên quan trong việc đầu tư và quản lý rủi ro, cũng như Chính phủ Việt Nam và chính quyền tỉnh Daklak trong việc hoạch định chính sách.","PeriodicalId":270329,"journal":{"name":"VNU JOURNAL OF ECONOMICS AND BUSINESS","volume":"520 1","pages":"0"},"PeriodicalIF":0.0,"publicationDate":"2023-02-24","publicationTypes":"Journal Article","fieldsOfStudy":null,"isOpenAccess":false,"openAccessPdf":"","citationCount":null,"resultStr":null,"platform":"Semanticscholar","paperid":"136166363","PeriodicalName":null,"FirstCategoryId":null,"ListUrlMain":null,"RegionNum":0,"RegionCategory":"","ArticlePicture":[],"TitleCN":null,"AbstractTextCN":null,"PMCID":"","EPubDate":null,"PubModel":null,"JCR":null,"JCRName":null,"Score":null,"Total":0}
Tiết kiệm điện năng tại các cơ quan, doanh nghiệp có ý nghĩa thiết thực trong việc góp phần bảo vệ môi trường và nâng cao hiệu quả hoạt động. Việc tiết kiệm điện năng tại các văn phòng được bố trí theo dạng mở có những điểm đặc thù khi người lao động làm việc trong cùng một không gian và sử dụng chung một số thiết bị điện. Nghiên cứu này giải thích ảnh hưởng của khả năng kiểm soát và kiểm soát hành vi cảm nhận tới hành vi tiết kiệm điện năng của người lao động làm việc trong kiểu văn phòng này. Dữ liệu thu thập từ khảo sát (với kích thước mẫu là 258 người) được đưa vào phân tích để kiểm định các giả thuyết nghiên cứu. Kết quả nghiên cứu chỉ ra kiểm soát hành vi cảm nhận ảnh hưởng trực tiếp tới hành vi tiết kiệm điện năng. Bên cạnh đó, hai biến số này còn ảnh hưởng tới hành vi tiết kiệm điện năng thông qua vai trò trung gian của ý định hành vi. Nghiên cứu đã đưa ra những hàm ý cho tổ chức và quản lý nhằm thúc đẩy tiết kiệm điện năng trong trường hợp các tổ chức bố trí khu vực làm việc theo dạng mở.
{"title":"Hành vi tiết kiệm điện năng của người lao động làm việc trong văn phòng mở: Vai trò của kiểm soát hành vi cảm nhận và khả năng kiểm soát của cá nhân","authors":"Hoàng Văn Hảo","doi":"10.57110/jebvn.v3i1.168","DOIUrl":"https://doi.org/10.57110/jebvn.v3i1.168","url":null,"abstract":"Tiết kiệm điện năng tại các cơ quan, doanh nghiệp có ý nghĩa thiết thực trong việc góp phần bảo vệ môi trường và nâng cao hiệu quả hoạt động. Việc tiết kiệm điện năng tại các văn phòng được bố trí theo dạng mở có những điểm đặc thù khi người lao động làm việc trong cùng một không gian và sử dụng chung một số thiết bị điện. Nghiên cứu này giải thích ảnh hưởng của khả năng kiểm soát và kiểm soát hành vi cảm nhận tới hành vi tiết kiệm điện năng của người lao động làm việc trong kiểu văn phòng này. Dữ liệu thu thập từ khảo sát (với kích thước mẫu là 258 người) được đưa vào phân tích để kiểm định các giả thuyết nghiên cứu. Kết quả nghiên cứu chỉ ra kiểm soát hành vi cảm nhận ảnh hưởng trực tiếp tới hành vi tiết kiệm điện năng. Bên cạnh đó, hai biến số này còn ảnh hưởng tới hành vi tiết kiệm điện năng thông qua vai trò trung gian của ý định hành vi. Nghiên cứu đã đưa ra những hàm ý cho tổ chức và quản lý nhằm thúc đẩy tiết kiệm điện năng trong trường hợp các tổ chức bố trí khu vực làm việc theo dạng mở.","PeriodicalId":270329,"journal":{"name":"VNU JOURNAL OF ECONOMICS AND BUSINESS","volume":"38 1","pages":"0"},"PeriodicalIF":0.0,"publicationDate":"2023-02-24","publicationTypes":"Journal Article","fieldsOfStudy":null,"isOpenAccess":false,"openAccessPdf":"","citationCount":null,"resultStr":null,"platform":"Semanticscholar","paperid":"114026412","PeriodicalName":null,"FirstCategoryId":null,"ListUrlMain":null,"RegionNum":0,"RegionCategory":"","ArticlePicture":[],"TitleCN":null,"AbstractTextCN":null,"PMCID":"","EPubDate":null,"PubModel":null,"JCR":null,"JCRName":null,"Score":null,"Total":0}
Trong chuyển đổi số, xây dựng nền văn hóa doanh nghiệp đáp ứng với nhu cầu thay đổi là một thách thức không hề nhỏ đối với các tập đoàn kinh tế. Dựa trên các luận chứng lý thuyết và nghiên cứu từ các học giả trên thế giới, bài viết trình bày các vấn đề hiện nay của văn hóa số (văn hóa doanh nghiệp trong chuyển đổi số) như các tác động tới chỉ số kinh doanh và mức độ chấp nhận công nghệ của nhân viên, sự thay đổi trong mô hình hoạt động hay vai trò của nhà lãnh đạo trong việc dẫn dắt nền văn hóa. Từ đó, bài viết đề xuất các khuyến nghị nhằm phát triển hoạt động chuyển đổi văn hóa số trong các tập đoàn kinh tế tại Việt Nam, trong đó hướng tới ba trọng tâm chính: xây dựng văn hóa trên các giá trị nguyên bản, học hỏi những giá trị mạnh từ các công ty thuần công nghệ và định hướng lại các giá trị quan trọng trong thời kỳ số.
{"title":"Văn hóa doanh nghiệp trong chuyển đổi số: Vai trò, thách thức và khuyến nghị cho các tập đoàn kinh tế Việt Nam","authors":"Nguyễn Thu Thảo","doi":"10.57110/jebvn.v3i1.159","DOIUrl":"https://doi.org/10.57110/jebvn.v3i1.159","url":null,"abstract":"Trong chuyển đổi số, xây dựng nền văn hóa doanh nghiệp đáp ứng với nhu cầu thay đổi là một thách thức không hề nhỏ đối với các tập đoàn kinh tế. Dựa trên các luận chứng lý thuyết và nghiên cứu từ các học giả trên thế giới, bài viết trình bày các vấn đề hiện nay của văn hóa số (văn hóa doanh nghiệp trong chuyển đổi số) như các tác động tới chỉ số kinh doanh và mức độ chấp nhận công nghệ của nhân viên, sự thay đổi trong mô hình hoạt động hay vai trò của nhà lãnh đạo trong việc dẫn dắt nền văn hóa. Từ đó, bài viết đề xuất các khuyến nghị nhằm phát triển hoạt động chuyển đổi văn hóa số trong các tập đoàn kinh tế tại Việt Nam, trong đó hướng tới ba trọng tâm chính: xây dựng văn hóa trên các giá trị nguyên bản, học hỏi những giá trị mạnh từ các công ty thuần công nghệ và định hướng lại các giá trị quan trọng trong thời kỳ số.","PeriodicalId":270329,"journal":{"name":"VNU JOURNAL OF ECONOMICS AND BUSINESS","volume":"1 1","pages":"0"},"PeriodicalIF":0.0,"publicationDate":"2023-02-24","publicationTypes":"Journal Article","fieldsOfStudy":null,"isOpenAccess":false,"openAccessPdf":"","citationCount":null,"resultStr":null,"platform":"Semanticscholar","paperid":"128480989","PeriodicalName":null,"FirstCategoryId":null,"ListUrlMain":null,"RegionNum":0,"RegionCategory":"","ArticlePicture":[],"TitleCN":null,"AbstractTextCN":null,"PMCID":"","EPubDate":null,"PubModel":null,"JCR":null,"JCRName":null,"Score":null,"Total":0}
Bay trực thăng ngắm cảnh là dịch vụ bay sử dụng trực thăng với các chuyến bay ngắn, tại các điểm du lịch hấp dẫn hay kỳ quan thiên nhiên nhằm mục đích giới thiệu với du khách một cái nhìn mới lạ, khác biệt từ trên cao. Hình thức bay này đã phát triển trên thế giới. Tại Việt Nam, đây là hình thức du lịch độc đáo, sang trọng và đẳng cấp, được Công ty Trực thăng Miền Bắc - Tổng Công ty Trực thăng Việt Nam cung cấp từ tháng 5/2019, thu hút nhiều du khách quốc tế cũng như trong nước tham gia trải nghiệm. Thông qua khảo sát 489 cá nhân sử dụng dịch vụ bay trực thăng ngắm cảnh, bài viết xem xét sự hài lòng của khách hàng, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm gia tăng sự thỏa mãn của khách hàng- yếu tố quyết định đến sự thành công trong quá trình xây dựng và phát triển thương hiệu của Công ty.
{"title":"Đánh giá sự hài lòng của khách hàng sử dụng dịch vụ bay trực thăng ngắm cảnh tại Vịnh Hạ Long","authors":"Vũ Thị Minh Hiền, Phạm Văn Dũng, Trần Kim Loan","doi":"10.57110/jebvn.v3i1.163","DOIUrl":"https://doi.org/10.57110/jebvn.v3i1.163","url":null,"abstract":"Bay trực thăng ngắm cảnh là dịch vụ bay sử dụng trực thăng với các chuyến bay ngắn, tại các điểm du lịch hấp dẫn hay kỳ quan thiên nhiên nhằm mục đích giới thiệu với du khách một cái nhìn mới lạ, khác biệt từ trên cao. Hình thức bay này đã phát triển trên thế giới. Tại Việt Nam, đây là hình thức du lịch độc đáo, sang trọng và đẳng cấp, được Công ty Trực thăng Miền Bắc - Tổng Công ty Trực thăng Việt Nam cung cấp từ tháng 5/2019, thu hút nhiều du khách quốc tế cũng như trong nước tham gia trải nghiệm. Thông qua khảo sát 489 cá nhân sử dụng dịch vụ bay trực thăng ngắm cảnh, bài viết xem xét sự hài lòng của khách hàng, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm gia tăng sự thỏa mãn của khách hàng- yếu tố quyết định đến sự thành công trong quá trình xây dựng và phát triển thương hiệu của Công ty.","PeriodicalId":270329,"journal":{"name":"VNU JOURNAL OF ECONOMICS AND BUSINESS","volume":"61 1","pages":"0"},"PeriodicalIF":0.0,"publicationDate":"2023-02-24","publicationTypes":"Journal Article","fieldsOfStudy":null,"isOpenAccess":false,"openAccessPdf":"","citationCount":null,"resultStr":null,"platform":"Semanticscholar","paperid":"125810136","PeriodicalName":null,"FirstCategoryId":null,"ListUrlMain":null,"RegionNum":0,"RegionCategory":"","ArticlePicture":[],"TitleCN":null,"AbstractTextCN":null,"PMCID":"","EPubDate":null,"PubModel":null,"JCR":null,"JCRName":null,"Score":null,"Total":0}