Nghiên cứu nhằm phân tích tác động truyền thông tiếp thị tích hợp (IMC) đến quyết định mua xe ô tô trong kỷ nguyên số. Mô hình nghiên cứu được hình thành dựa trên lý thuyết học tập xã hội (social learning theory), truyền thông tiếp thị tích hợp (IMC) và quyết định mua hàng. Tác giả tiến hành phỏng vấn 384 khách hàng đã mua xe tại showroom ô tô tại Việt Nam. Bằng các công cụ thống kê mô tả, phân tích nhân tố khám phá (EFA), kiểm định độ tin cậy thang đo (CRA), phân tích nhân tố khẳng định (CFA) và mô hình cấu trúc tuyến tính (SEM), kết quả cho thấy có sự ảnh hưởng tích cực của tiếp thị trực tiếp, truyền miệng, quảng cáo, xúc tiến bán hàng - khuyến mãi, bán hàng cá nhân, quan hệ công chúng đến quyết định mua xe ô tô. Từ đó, nghiên cứu đưa ra các hàm ý quản trị nhằm giúp các doanh nghiệp kinh doanh xe ô tô có thể tập trung đẩy mạnh tiếp thị truyền thông và tăng cường doanh thu đồng thời mang lại giá trị đặc trưng thương hiệu xe trong ngành ô tô Việt Nam
{"title":"Truyền thông tiếp thị tích hợp và quyết định mua hàng: Bằng chứng từ ngành công nghiệp xe ô tô Việt Nam","authors":"Đặng Hoàng Minh Quân, Trần Bảo Chi","doi":"10.52932/jfm.vi1.368","DOIUrl":"https://doi.org/10.52932/jfm.vi1.368","url":null,"abstract":"Nghiên cứu nhằm phân tích tác động truyền thông tiếp thị tích hợp (IMC) đến quyết định mua xe ô tô trong kỷ nguyên số. Mô hình nghiên cứu được hình thành dựa trên lý thuyết học tập xã hội (social learning theory), truyền thông tiếp thị tích hợp (IMC) và quyết định mua hàng. Tác giả tiến hành phỏng vấn 384 khách hàng đã mua xe tại showroom ô tô tại Việt Nam. Bằng các công cụ thống kê mô tả, phân tích nhân tố khám phá (EFA), kiểm định độ tin cậy thang đo (CRA), phân tích nhân tố khẳng định (CFA) và mô hình cấu trúc tuyến tính (SEM), kết quả cho thấy có sự ảnh hưởng tích cực của tiếp thị trực tiếp, truyền miệng, quảng cáo, xúc tiến bán hàng - khuyến mãi, bán hàng cá nhân, quan hệ công chúng đến quyết định mua xe ô tô. Từ đó, nghiên cứu đưa ra các hàm ý quản trị nhằm giúp các doanh nghiệp kinh doanh xe ô tô có thể tập trung đẩy mạnh tiếp thị truyền thông và tăng cường doanh thu đồng thời mang lại giá trị đặc trưng thương hiệu xe trong ngành ô tô Việt Nam","PeriodicalId":362797,"journal":{"name":"Tạp chí Nghiên cứu Tài chính - Marketing","volume":"35 1","pages":"0"},"PeriodicalIF":0.0,"publicationDate":"2023-02-25","publicationTypes":"Journal Article","fieldsOfStudy":null,"isOpenAccess":false,"openAccessPdf":"","citationCount":null,"resultStr":null,"platform":"Semanticscholar","paperid":"114311459","PeriodicalName":null,"FirstCategoryId":null,"ListUrlMain":null,"RegionNum":0,"RegionCategory":"","ArticlePicture":[],"TitleCN":null,"AbstractTextCN":null,"PMCID":"","EPubDate":null,"PubModel":null,"JCR":null,"JCRName":null,"Score":null,"Total":0}
Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến cấu trúc vốn của doanh nghiệp ngành bất động sản niêm yết tại Sở Giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh (HOSE) được thực hiện dựa trên cơ sở các Lý thuyết M&M, Lý thuyết đánh đổi, Lý thuyết trật tự phân hạng. Mục đích của nghiên cứu là đánh giá các nhân tố tác động đến cấu trúc vốn của các doanh nghiệp bất động sản. Từ đó đưa ra những kiến nghị, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sửa dụng vốn của doanh nghiệp. Các dữ liệu được thu thập qua báo cáo tài chính của 60 doanh nghiệp bất động sản niêm yết trên sàn HOSE giai đoạn 2017 – 2021. Dữ liệu được xử lý thông qua phương pháp thống kê mô tả, ma trận tương quan và mô hình hồi quy theo phương pháp ảnh hưởng cố định (FEM). Kết quả thu được từ việc phân tích 297 mẫu quan sát cho thấy, quy mô doanh nghiệp, tỷ suất sinh lời và tính thanh khoản là các yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến cấu trúc vốn doanh nghiệp bất động sản nhưng cấu trúc tài sản thì không. Phát hiện quan trọng này là bằng chứng quan trọng cho thấy, phần lớn nợ từ phát hành trái phiếu của doanh nghiệp bất động sản không làm tăng tài sản cố định, gây ra rủi ro lớn cho người cho vay. Chính phủ cần kiểm soát và có quy định chặt chẽ trong việc phát hành trái phiếu doanh nghiệp của các công ty bất động sản hiện nay.
{"title":"Các nhân tố ảnh hưởng đến cấu trúc vốn của doanh nghiệp bất động sản niêm yết tại sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh","authors":"Trương Gia Hân, Lê Thị Phương Loan","doi":"10.52932/jfm.vi1.300","DOIUrl":"https://doi.org/10.52932/jfm.vi1.300","url":null,"abstract":"Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến cấu trúc vốn của doanh nghiệp ngành bất động sản niêm yết tại Sở Giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh (HOSE) được thực hiện dựa trên cơ sở các Lý thuyết M&M, Lý thuyết đánh đổi, Lý thuyết trật tự phân hạng. Mục đích của nghiên cứu là đánh giá các nhân tố tác động đến cấu trúc vốn của các doanh nghiệp bất động sản. Từ đó đưa ra những kiến nghị, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sửa dụng vốn của doanh nghiệp. Các dữ liệu được thu thập qua báo cáo tài chính của 60 doanh nghiệp bất động sản niêm yết trên sàn HOSE giai đoạn 2017 – 2021. Dữ liệu được xử lý thông qua phương pháp thống kê mô tả, ma trận tương quan và mô hình hồi quy theo phương pháp ảnh hưởng cố định (FEM). Kết quả thu được từ việc phân tích 297 mẫu quan sát cho thấy, quy mô doanh nghiệp, tỷ suất sinh lời và tính thanh khoản là các yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến cấu trúc vốn doanh nghiệp bất động sản nhưng cấu trúc tài sản thì không. Phát hiện quan trọng này là bằng chứng quan trọng cho thấy, phần lớn nợ từ phát hành trái phiếu của doanh nghiệp bất động sản không làm tăng tài sản cố định, gây ra rủi ro lớn cho người cho vay. Chính phủ cần kiểm soát và có quy định chặt chẽ trong việc phát hành trái phiếu doanh nghiệp của các công ty bất động sản hiện nay.","PeriodicalId":362797,"journal":{"name":"Tạp chí Nghiên cứu Tài chính - Marketing","volume":"76 1","pages":"0"},"PeriodicalIF":0.0,"publicationDate":"2023-02-25","publicationTypes":"Journal Article","fieldsOfStudy":null,"isOpenAccess":false,"openAccessPdf":"","citationCount":null,"resultStr":null,"platform":"Semanticscholar","paperid":"124196418","PeriodicalName":null,"FirstCategoryId":null,"ListUrlMain":null,"RegionNum":0,"RegionCategory":"","ArticlePicture":[],"TitleCN":null,"AbstractTextCN":null,"PMCID":"","EPubDate":null,"PubModel":null,"JCR":null,"JCRName":null,"Score":null,"Total":0}
Mục đích của nghiên cứu này là kiểm tra mối quan hệ giữa năm tính cách lớn bao gồm sự dễ chịu (agreeableness), sự tận tâm (conscientiousness), tính hướng ngoại (extraversion), sự bất ổn tâm lý (neuroticism) và sự cởi mở với trải nghiệm (openness to experience) đến ý định khởi sự kinh doanh xã hội. Các câu trả lời được thu thập từ 400 sinh viên đại học để tiến hành phân tích. Kết quả nghiên cứu cho thấy, trong khi sự dễ chịu, tính hướng ngoại và sự cởi mở với trải nghiệm có những tác động tích cực đến ý định khởi sự kinh doanh xã hội thì sự bất ổn tâm lý và sự tận tâm không có tác động đến ý định khởi sự kinh doanh xã hội. Từ kết quả phân tích, các nhà hoạch định chính sách có thể xây dựng một môi trường thúc đẩy sự dễ chịu, hướng ngoại và cởi mở với trải nghiệm - đây là những yếu tố chính ảnh hưởng đến ý định khởi sự kinh doanh xã hội. Các nhà giáo dục có thể thiết kế các chương trình phát triển các tính cách để giúp các sinh viên phát triển các tính cách phù hợp với việc trở thành doanh nhân xã hội. Nghiên cứu trong tương lai nên được mở rộng để kết hợp các yếu tố khác như văn hóa, lý lịch, giáo dục và kinh nghiệm để cung cấp một cái nhìn tổng quát hơn về tác động của tính cách đến ý định khởi sự kinh doanh xã hội.
{"title":"Mối quan hệ giữa năm đặc điểm tính cách lớn và ý định khởi sự kinh doanh xã hội","authors":"Phan Tấn Lực","doi":"10.52932/jfm.vi1.310","DOIUrl":"https://doi.org/10.52932/jfm.vi1.310","url":null,"abstract":"Mục đích của nghiên cứu này là kiểm tra mối quan hệ giữa năm tính cách lớn bao gồm sự dễ chịu (agreeableness), sự tận tâm (conscientiousness), tính hướng ngoại (extraversion), sự bất ổn tâm lý (neuroticism) và sự cởi mở với trải nghiệm (openness to experience) đến ý định khởi sự kinh doanh xã hội. Các câu trả lời được thu thập từ 400 sinh viên đại học để tiến hành phân tích. Kết quả nghiên cứu cho thấy, trong khi sự dễ chịu, tính hướng ngoại và sự cởi mở với trải nghiệm có những tác động tích cực đến ý định khởi sự kinh doanh xã hội thì sự bất ổn tâm lý và sự tận tâm không có tác động đến ý định khởi sự kinh doanh xã hội. Từ kết quả phân tích, các nhà hoạch định chính sách có thể xây dựng một môi trường thúc đẩy sự dễ chịu, hướng ngoại và cởi mở với trải nghiệm - đây là những yếu tố chính ảnh hưởng đến ý định khởi sự kinh doanh xã hội. Các nhà giáo dục có thể thiết kế các chương trình phát triển các tính cách để giúp các sinh viên phát triển các tính cách phù hợp với việc trở thành doanh nhân xã hội. Nghiên cứu trong tương lai nên được mở rộng để kết hợp các yếu tố khác như văn hóa, lý lịch, giáo dục và kinh nghiệm để cung cấp một cái nhìn tổng quát hơn về tác động của tính cách đến ý định khởi sự kinh doanh xã hội.","PeriodicalId":362797,"journal":{"name":"Tạp chí Nghiên cứu Tài chính - Marketing","volume":"247 1","pages":"0"},"PeriodicalIF":0.0,"publicationDate":"2023-02-25","publicationTypes":"Journal Article","fieldsOfStudy":null,"isOpenAccess":false,"openAccessPdf":"","citationCount":null,"resultStr":null,"platform":"Semanticscholar","paperid":"115187757","PeriodicalName":null,"FirstCategoryId":null,"ListUrlMain":null,"RegionNum":0,"RegionCategory":"","ArticlePicture":[],"TitleCN":null,"AbstractTextCN":null,"PMCID":"","EPubDate":null,"PubModel":null,"JCR":null,"JCRName":null,"Score":null,"Total":0}
Bài viết khảo sát thực trạng công bố thông tin trách nhiệm xã hội của các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam dựa theo chỉ số minh bạch thông tin trách nhiệm xã hội được xây dựng theo chuẩn GRI về công bố thông tin trách nhiệm xã hội. Dựa trên mẫu nghiên cứu gồm 900 quan sát, bài viết đã đánh giá các nhân tố tác động đến thực trạng thông tin trách nhiệm xã hội trên thị trường chứng khoán Việt Nam, trong đó các nhân tố được khẳng định bao gồm đòn bẩy tài chính, quy mô doanh nghiệp, mức độ độc lập của Hội đồng quản trị, tỷ trọng sở hữu nhà nước , tính kiêm nhiệm của CEO và việc sử dụng kiểm toán độc lập Big 4. Đây là nghiên cứu đầu tiên đánh giá thực trạng công bố thông tin trách nhiệm xã hội của các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam dựa trên chuẩn GRI thực hiện trên quy mô lớn; đồng thời, góp phần củng cố kết quả nghiên cứu trước đây liên quan đến các nhân tố ảnh hưởng đến việc công bố thông tin trách nhiệm xã hội trên thị trường trong bối cảnh các nền kinh tế đang phát triển, từ đó đề xuất các giải pháp thực tiễn cho các doanh nghiệp niêm yết và nhà đầu tư nhằm cải thiện tình trạng minh bạch thông tin trên thị trường.
{"title":"Các yếu tố tác động đến công bố thông tin trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp trên thị trường chứng khoán Việt Nam","authors":"Nguyễn Thu Thùy Anh","doi":"10.52932/jfm.vi1.264","DOIUrl":"https://doi.org/10.52932/jfm.vi1.264","url":null,"abstract":"Bài viết khảo sát thực trạng công bố thông tin trách nhiệm xã hội của các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam dựa theo chỉ số minh bạch thông tin trách nhiệm xã hội được xây dựng theo chuẩn GRI về công bố thông tin trách nhiệm xã hội. Dựa trên mẫu nghiên cứu gồm 900 quan sát, bài viết đã đánh giá các nhân tố tác động đến thực trạng thông tin trách nhiệm xã hội trên thị trường chứng khoán Việt Nam, trong đó các nhân tố được khẳng định bao gồm đòn bẩy tài chính, quy mô doanh nghiệp, mức độ độc lập của Hội đồng quản trị, tỷ trọng sở hữu nhà nước , tính kiêm nhiệm của CEO và việc sử dụng kiểm toán độc lập Big 4. Đây là nghiên cứu đầu tiên đánh giá thực trạng công bố thông tin trách nhiệm xã hội của các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam dựa trên chuẩn GRI thực hiện trên quy mô lớn; đồng thời, góp phần củng cố kết quả nghiên cứu trước đây liên quan đến các nhân tố ảnh hưởng đến việc công bố thông tin trách nhiệm xã hội trên thị trường trong bối cảnh các nền kinh tế đang phát triển, từ đó đề xuất các giải pháp thực tiễn cho các doanh nghiệp niêm yết và nhà đầu tư nhằm cải thiện tình trạng minh bạch thông tin trên thị trường.","PeriodicalId":362797,"journal":{"name":"Tạp chí Nghiên cứu Tài chính - Marketing","volume":"30 1","pages":"0"},"PeriodicalIF":0.0,"publicationDate":"2023-02-25","publicationTypes":"Journal Article","fieldsOfStudy":null,"isOpenAccess":false,"openAccessPdf":"","citationCount":null,"resultStr":null,"platform":"Semanticscholar","paperid":"131889425","PeriodicalName":null,"FirstCategoryId":null,"ListUrlMain":null,"RegionNum":0,"RegionCategory":"","ArticlePicture":[],"TitleCN":null,"AbstractTextCN":null,"PMCID":"","EPubDate":null,"PubModel":null,"JCR":null,"JCRName":null,"Score":null,"Total":0}
Ngày nay, doanh nghiệp nhỏ và vừa (SMEs) được xem như là lực lượng đóng vai trò quan trọng cho sự phát triển kinh tế xã hội. Để tồn tại và phát triển bền vững SMEs phải tổ chức và điều hành hoạt động thật hữu hiệu và hiệu quả. Trong đó, hoàn thiện tổ chức bộ máy kế toán sẽ góp phần cung cấp thông tin hữu ích cho nhà quản trị trong việc đưa ra quyết định. Tuy nhiên, với đặc điểm về quy mô, SMEs chưa thật sự quan tâm đến công tác tổ chức bộ máy kế toán. Ngoài ra, hệ thống văn bản pháp luật trong lĩnh vực tài chính kế toán áp dụng cho SMEs tồn tại những thuận lợi và thách thức nhất định. Phương pháp nghiên cứu định tính và thống kê mô tả được sử dụng trong nghiên cứu với mục tiêu đánh giá thực trạng tổ chức bộ máy kế toán của SMEs trên địa bàn Thành phố Cần Thơ. Kết quả nghiên cứu cho thấy, SMEs có tổ chức bộ máy kế toán đơn giản, gọn nhẹ hoặc sử dụng dịch vụ kế toán được cung cấp bởi các đơn vị hành nghề dịch vụ kế toán. Tuy nhiên, nhân viên kế toán còn kiêm nhiệm nhiều vị trí nên hệ thống kiểm soát nội bộ chưa được quản lý chặt chẽ. Kết quả nghiên cứu đã góp phần hệ thống hóa các văn bản pháp luật trong tổ chức bộ máy kế toán và người làm kế toán, đồng thời đề xuất các hàm ý chính sách và quản trị giúp cho SMEs hoàn thiện tổ chức bộ máy kế toán
{"title":"Thực trạng tổ chức bộ máy kế toán tại các doanh nghiệp nhỏ và vừa tại thành phố Cần Thơ","authors":"T. Hà, Huy Lê, Nguyệt Phan, Sa Ráte Thạch, H. Võ","doi":"10.52932/jfm.vi1.281","DOIUrl":"https://doi.org/10.52932/jfm.vi1.281","url":null,"abstract":"Ngày nay, doanh nghiệp nhỏ và vừa (SMEs) được xem như là lực lượng đóng vai trò quan trọng cho sự phát triển kinh tế xã hội. Để tồn tại và phát triển bền vững SMEs phải tổ chức và điều hành hoạt động thật hữu hiệu và hiệu quả. Trong đó, hoàn thiện tổ chức bộ máy kế toán sẽ góp phần cung cấp thông tin hữu ích cho nhà quản trị trong việc đưa ra quyết định. Tuy nhiên, với đặc điểm về quy mô, SMEs chưa thật sự quan tâm đến công tác tổ chức bộ máy kế toán. Ngoài ra, hệ thống văn bản pháp luật trong lĩnh vực tài chính kế toán áp dụng cho SMEs tồn tại những thuận lợi và thách thức nhất định. Phương pháp nghiên cứu định tính và thống kê mô tả được sử dụng trong nghiên cứu với mục tiêu đánh giá thực trạng tổ chức bộ máy kế toán của SMEs trên địa bàn Thành phố Cần Thơ. Kết quả nghiên cứu cho thấy, SMEs có tổ chức bộ máy kế toán đơn giản, gọn nhẹ hoặc sử dụng dịch vụ kế toán được cung cấp bởi các đơn vị hành nghề dịch vụ kế toán. Tuy nhiên, nhân viên kế toán còn kiêm nhiệm nhiều vị trí nên hệ thống kiểm soát nội bộ chưa được quản lý chặt chẽ. Kết quả nghiên cứu đã góp phần hệ thống hóa các văn bản pháp luật trong tổ chức bộ máy kế toán và người làm kế toán, đồng thời đề xuất các hàm ý chính sách và quản trị giúp cho SMEs hoàn thiện tổ chức bộ máy kế toán","PeriodicalId":362797,"journal":{"name":"Tạp chí Nghiên cứu Tài chính - Marketing","volume":"59 1","pages":"0"},"PeriodicalIF":0.0,"publicationDate":"2023-02-25","publicationTypes":"Journal Article","fieldsOfStudy":null,"isOpenAccess":false,"openAccessPdf":"","citationCount":null,"resultStr":null,"platform":"Semanticscholar","paperid":"131939569","PeriodicalName":null,"FirstCategoryId":null,"ListUrlMain":null,"RegionNum":0,"RegionCategory":"","ArticlePicture":[],"TitleCN":null,"AbstractTextCN":null,"PMCID":"","EPubDate":null,"PubModel":null,"JCR":null,"JCRName":null,"Score":null,"Total":0}
Thị trường hàng tiêu dùng là một trong những thị trường quan trọng của Việt Nam. Để tiếp tục phát triển thị trường tiềm năng này, cải thiện tình hình hoạt động và khả năng sinh lời của các doanh nghiệp thuộc ngành hàng là cực kỳ quan trọng. Nghiên cứu này nhằm xem xét các tác động khả dĩ các yếu tố kinh tế vĩ mô và đặc điểm doanh nghiệp đến khả năng sinh lời của doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hàng tiêu dùng, được đo bằng tỷ suất lợi nhuận trên tài sản (ROA) và tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE). Nghiên cứu sử dụng các mô hình hồi quy dữ liệu dạng bảng POOL, REM, FEM và phương pháp GLS để nghiên cứu trên 79 doanh nghiệp niêm yết trên HNX và HOSE trong giai đoạn 2016-2020. Kết quả ước lược cho thấy, năng sinh lời của doanh nghiệp ngành hàng tiêu dùng niêm yết trên sàn chứng khoán Việt Nam chịu ảnh hưởng bởi cả yếu tố kinh tế vĩ mô và đặc điểm doanh nghiệp. Các yếu tố vĩ mô đặc trưng gồm tăng tưởng GDP, tỷ lệ lạm phát, lãi suất và tỷ giá hối đoái. Các yếu tố đặc điểm doanh nghiệp thể hiện quy mô, đòn bẩy tài chính và tính thanh khoản doanh nghiệp. Khuyến nghị các nhà quản lý doanh nghiệp nên quan tâm đến cả các yếu tố kinh tế vĩ mô và đặc điểm doanh nghiệp khi đưa ra quyết định, đặc biệt là lãi suất và đòn bẩy tài chính doanh nghiệp
{"title":"Các yếu tố tác động đến lợi nhuận của doanh nghiệp hàng tiêu dùng: Nghiên cứu các doanh nghiệp niêm yết trên sàn chứng khoán Việt Nam","authors":"N. Linh, Phan Thị Thanh Nga","doi":"10.52932/jfm.vi71.339","DOIUrl":"https://doi.org/10.52932/jfm.vi71.339","url":null,"abstract":"Thị trường hàng tiêu dùng là một trong những thị trường quan trọng của Việt Nam. Để tiếp tục phát triển thị trường tiềm năng này, cải thiện tình hình hoạt động và khả năng sinh lời của các doanh nghiệp thuộc ngành hàng là cực kỳ quan trọng. Nghiên cứu này nhằm xem xét các tác động khả dĩ các yếu tố kinh tế vĩ mô và đặc điểm doanh nghiệp đến khả năng sinh lời của doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hàng tiêu dùng, được đo bằng tỷ suất lợi nhuận trên tài sản (ROA) và tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE). Nghiên cứu sử dụng các mô hình hồi quy dữ liệu dạng bảng POOL, REM, FEM và phương pháp GLS để nghiên cứu trên 79 doanh nghiệp niêm yết trên HNX và HOSE trong giai đoạn 2016-2020. Kết quả ước lược cho thấy, năng sinh lời của doanh nghiệp ngành hàng tiêu dùng niêm yết trên sàn chứng khoán Việt Nam chịu ảnh hưởng bởi cả yếu tố kinh tế vĩ mô và đặc điểm doanh nghiệp. Các yếu tố vĩ mô đặc trưng gồm tăng tưởng GDP, tỷ lệ lạm phát, lãi suất và tỷ giá hối đoái. Các yếu tố đặc điểm doanh nghiệp thể hiện quy mô, đòn bẩy tài chính và tính thanh khoản doanh nghiệp. Khuyến nghị các nhà quản lý doanh nghiệp nên quan tâm đến cả các yếu tố kinh tế vĩ mô và đặc điểm doanh nghiệp khi đưa ra quyết định, đặc biệt là lãi suất và đòn bẩy tài chính doanh nghiệp","PeriodicalId":362797,"journal":{"name":"Tạp chí Nghiên cứu Tài chính - Marketing","volume":"146 1","pages":"0"},"PeriodicalIF":0.0,"publicationDate":"2022-12-28","publicationTypes":"Journal Article","fieldsOfStudy":null,"isOpenAccess":false,"openAccessPdf":"","citationCount":null,"resultStr":null,"platform":"Semanticscholar","paperid":"124693145","PeriodicalName":null,"FirstCategoryId":null,"ListUrlMain":null,"RegionNum":0,"RegionCategory":"","ArticlePicture":[],"TitleCN":null,"AbstractTextCN":null,"PMCID":"","EPubDate":null,"PubModel":null,"JCR":null,"JCRName":null,"Score":null,"Total":0}
Lương Vinh Quốc Duy, Nguyễn Khánh Duy, Nguyễn Văn Viên, Nguyễn Tấn Khuyên, Nguyễn Trọng Hoài, Đào Xuân Đức, N. L. Hương
Bài báo này cung cấp một góc nhìn về hiệu quả sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đang hoạt động trong các khu công nghiệp và khu chế xuất (gọi chung là khu công nghiệp) tại TP. Hồ Chí Minh. Để thực hiện mục tiêu nghiên cứu này, chúng tôi so sánh doanh nghiệp trong khu công nghiệp và doanh nghiệp bên ngoài khu công nghiệp dựa vào những chỉ tiêu sau: tỷ suất lợi nhuận trước thuế trên tổng tài sản, tỷ lệ xuất khẩu ròng trên doanh thu thuần và tỷ lệ đóng góp vào ngân sách Nhà nước trên doanh thu thuần. Dữ liệu phân tích được trích từ điều tra doanh nghiệp 2019 của Tổng cục Thống kê. Việc so sánh được tiến hành theo quy mô và ngành kinh tế cấp 2. Kết quả phân tích cho thấy, hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp trong khu công nghiệp cao hơn doanh nghiệp ngoài khu công nghiệp chủ yếu tập trung ở nhóm doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ.
{"title":"Hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tại Thành phố Hồ Chí Minh: So sánh giữa doanh nghiệp trong và ngoài khu công nghiệp","authors":"Lương Vinh Quốc Duy, Nguyễn Khánh Duy, Nguyễn Văn Viên, Nguyễn Tấn Khuyên, Nguyễn Trọng Hoài, Đào Xuân Đức, N. L. Hương","doi":"10.52932/jfm.vi70.321","DOIUrl":"https://doi.org/10.52932/jfm.vi70.321","url":null,"abstract":"Bài báo này cung cấp một góc nhìn về hiệu quả sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đang hoạt động trong các khu công nghiệp và khu chế xuất (gọi chung là khu công nghiệp) tại TP. Hồ Chí Minh. Để thực hiện mục tiêu nghiên cứu này, chúng tôi so sánh doanh nghiệp trong khu công nghiệp và doanh nghiệp bên ngoài khu công nghiệp dựa vào những chỉ tiêu sau: tỷ suất lợi nhuận trước thuế trên tổng tài sản, tỷ lệ xuất khẩu ròng trên doanh thu thuần và tỷ lệ đóng góp vào ngân sách Nhà nước trên doanh thu thuần. Dữ liệu phân tích được trích từ điều tra doanh nghiệp 2019 của Tổng cục Thống kê. Việc so sánh được tiến hành theo quy mô và ngành kinh tế cấp 2. Kết quả phân tích cho thấy, hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp trong khu công nghiệp cao hơn doanh nghiệp ngoài khu công nghiệp chủ yếu tập trung ở nhóm doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ.","PeriodicalId":362797,"journal":{"name":"Tạp chí Nghiên cứu Tài chính - Marketing","volume":"45 1","pages":"0"},"PeriodicalIF":0.0,"publicationDate":"2022-08-25","publicationTypes":"Journal Article","fieldsOfStudy":null,"isOpenAccess":false,"openAccessPdf":"","citationCount":null,"resultStr":null,"platform":"Semanticscholar","paperid":"131424997","PeriodicalName":null,"FirstCategoryId":null,"ListUrlMain":null,"RegionNum":0,"RegionCategory":"","ArticlePicture":[],"TitleCN":null,"AbstractTextCN":null,"PMCID":"","EPubDate":null,"PubModel":null,"JCR":null,"JCRName":null,"Score":null,"Total":0}
Đặng Hoàng Minh Quân, Phạm Minh Tiến, Võ Thành Tâm, N. Vinh
Năng suất các yếu tố tổng hợp (TFP) đã trở thành chỉ tiêu quan trọng để phân tích và đánh giá khả năng tăng trưởng và phát triển không chỉ ở cấp độ quốc gia mà còn ở cấp độ địa phương và ngành. Nghiên cứu này nhằm phân tích sự đóng góp của năng suất các yếu tố tổng hợp (TFP) vào hiệu quả kỹ thuật đối với tăng trưởng của một số ngành hàng nông nghiệp chủ lực trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp. Thông qua hàm sản xuất biên ngẫu nhiên được xây dựng từ bộ dữ liệu khảo sát hộ cá thể trong giai đoạn 2018-2019, kết quả ước lượng cho thấy đóng góp của TFP vào tăng trưởng đầu ra của chung bốn ngành là 68,93% và hiệu quả kỹ thuật đạt 68,57%. Trong đó, ngành lúa có chỉ số TFP là 50,67%, ngành xoài là 55,11%, ngành cá tra là 71,08% và ngành hoa kiểng là 64,72%. Kết quả của nghiên cứu là cơ sở khoa học phục vụ cho công tác điều hành và định hướng phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Đồng Tháp gắn với Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp trong tương lai.
{"title":"Đóng góp TFP và hiệu quả kỹ thuật của một số ngành hàng nông nghiệp tỉnh Đồng Tháp: Tiếp cận dữ liệu hộ cá thể","authors":"Đặng Hoàng Minh Quân, Phạm Minh Tiến, Võ Thành Tâm, N. Vinh","doi":"10.52932/jfm.vi70.311","DOIUrl":"https://doi.org/10.52932/jfm.vi70.311","url":null,"abstract":"Năng suất các yếu tố tổng hợp (TFP) đã trở thành chỉ tiêu quan trọng để phân tích và đánh giá khả năng tăng trưởng và phát triển không chỉ ở cấp độ quốc gia mà còn ở cấp độ địa phương và ngành. Nghiên cứu này nhằm phân tích sự đóng góp của năng suất các yếu tố tổng hợp (TFP) vào hiệu quả kỹ thuật đối với tăng trưởng của một số ngành hàng nông nghiệp chủ lực trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp. Thông qua hàm sản xuất biên ngẫu nhiên được xây dựng từ bộ dữ liệu khảo sát hộ cá thể trong giai đoạn 2018-2019, kết quả ước lượng cho thấy đóng góp của TFP vào tăng trưởng đầu ra của chung bốn ngành là 68,93% và hiệu quả kỹ thuật đạt 68,57%. Trong đó, ngành lúa có chỉ số TFP là 50,67%, ngành xoài là 55,11%, ngành cá tra là 71,08% và ngành hoa kiểng là 64,72%. Kết quả của nghiên cứu là cơ sở khoa học phục vụ cho công tác điều hành và định hướng phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Đồng Tháp gắn với Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp trong tương lai.","PeriodicalId":362797,"journal":{"name":"Tạp chí Nghiên cứu Tài chính - Marketing","volume":"44 1","pages":"0"},"PeriodicalIF":0.0,"publicationDate":"2022-08-25","publicationTypes":"Journal Article","fieldsOfStudy":null,"isOpenAccess":false,"openAccessPdf":"","citationCount":null,"resultStr":null,"platform":"Semanticscholar","paperid":"132620470","PeriodicalName":null,"FirstCategoryId":null,"ListUrlMain":null,"RegionNum":0,"RegionCategory":"","ArticlePicture":[],"TitleCN":null,"AbstractTextCN":null,"PMCID":"","EPubDate":null,"PubModel":null,"JCR":null,"JCRName":null,"Score":null,"Total":0}
Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp phải đối mặt với rất nhiều các rủi ro, các yếu tố bên ngoài và bên trong ảnh hưởng đến quá trình thực hiện các mục tiêu của doanh nghiệp. Và khi đó kiểm soát nội bộ đóng vai trò như một công cụ hữu hiệu để các doanh nghiệp đối phó với rủi ro, giảm thiểu rủi ro xuống mức có thể chấp nhận được, đảm bảo hiệu quả và hiệu suất của các hoạt động; tính tin cậy của thông tin và tăng cường tính tuân thủ với các luật và các quy định. Bài nghiên cứu dưới đây thông qua khảo sát về kiểm soát nội bộ ở 360 doanh nghiệp nhỏ và vừa nhóm ngành sản xuất tại Thành phố Hồ Chí Minh năm 2020, thông qua năm thành phần kiểm soát nội bộ để thấy rõ thực trạng kiểm soát nội bộ tại các doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. Kết quả cho thấy tại các doanh nghiệp khảo sát nhìn chung còn yếu ở hoạt động “Giám sát”, “Hoạt động kiểm soát” và “Đánh giá rủi ro”. Hai hoạt động “Thông tin truyền thông” và “Môi trường kiểm soát” là hai thành phần đạt tỷ lệ cao trong năm thành phần của kiểm soát nội bộ. Một số các kiến nghị được tác giả đưa ra như cần phải xây dựng chính sách nhân sự hợp lý, từng bước xây dựng quy trình đánh giá rủi ro, tăng cường các hoạt động giám sát, v.v. Từ đó hoàn thiện dần công tác kiểm soát nội bộ tại các doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh.
{"title":"Thực trạng kiểm soát nội bộ của các doanh nghiệp nhỏ và vừa nhóm ngành sản suất tại Thành phố Hồ Chí Minh","authors":"Lê Thị Mến","doi":"10.52932/jfm.vi70.322","DOIUrl":"https://doi.org/10.52932/jfm.vi70.322","url":null,"abstract":"Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp phải đối mặt với rất nhiều các rủi ro, các yếu tố bên ngoài và bên trong ảnh hưởng đến quá trình thực hiện các mục tiêu của doanh nghiệp. Và khi đó kiểm soát nội bộ đóng vai trò như một công cụ hữu hiệu để các doanh nghiệp đối phó với rủi ro, giảm thiểu rủi ro xuống mức có thể chấp nhận được, đảm bảo hiệu quả và hiệu suất của các hoạt động; tính tin cậy của thông tin và tăng cường tính tuân thủ với các luật và các quy định. Bài nghiên cứu dưới đây thông qua khảo sát về kiểm soát nội bộ ở 360 doanh nghiệp nhỏ và vừa nhóm ngành sản xuất tại Thành phố Hồ Chí Minh năm 2020, thông qua năm thành phần kiểm soát nội bộ để thấy rõ thực trạng kiểm soát nội bộ tại các doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. Kết quả cho thấy tại các doanh nghiệp khảo sát nhìn chung còn yếu ở hoạt động “Giám sát”, “Hoạt động kiểm soát” và “Đánh giá rủi ro”. Hai hoạt động “Thông tin truyền thông” và “Môi trường kiểm soát” là hai thành phần đạt tỷ lệ cao trong năm thành phần của kiểm soát nội bộ. Một số các kiến nghị được tác giả đưa ra như cần phải xây dựng chính sách nhân sự hợp lý, từng bước xây dựng quy trình đánh giá rủi ro, tăng cường các hoạt động giám sát, v.v. Từ đó hoàn thiện dần công tác kiểm soát nội bộ tại các doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh.","PeriodicalId":362797,"journal":{"name":"Tạp chí Nghiên cứu Tài chính - Marketing","volume":"3 1","pages":"0"},"PeriodicalIF":0.0,"publicationDate":"2022-08-25","publicationTypes":"Journal Article","fieldsOfStudy":null,"isOpenAccess":false,"openAccessPdf":"","citationCount":null,"resultStr":null,"platform":"Semanticscholar","paperid":"117088005","PeriodicalName":null,"FirstCategoryId":null,"ListUrlMain":null,"RegionNum":0,"RegionCategory":"","ArticlePicture":[],"TitleCN":null,"AbstractTextCN":null,"PMCID":"","EPubDate":null,"PubModel":null,"JCR":null,"JCRName":null,"Score":null,"Total":0}
Cuộc cách mạng container đã làm nổi bật vai trò của các kho thông quan nội địa (ICDs, viết tắt của Inland Clearance Depots) trong việc điều phối vận chuyển hiệu quả. Ngày nay, các container dần đi sâu hơn vào nội địa đã buộc các cảng biển phụ thuộc vào ICDs để xác định sức cạnh tranh của mình cũng như cung cấp một cơ chế giá cước vận chuyển cạnh tranh cho các khách hàng. Hoạt động của ICDs cần được cải thiện để theo kịp sự năng động của thương mại hàng hải, đáp ứng tốt nhu cầu của các bên trong hệ thống cảng container và duy trì lợi thế cạnh tranh bền vững của các cảng biển. Mục tiêu của bài viết này nhằm cải thiện vị thế của ICDs bằng việc xác định các nhân tố nâng cao lợi thế cạnh tranh của ICDs khu vực TP. Hồ Chí Minh. Bài viết sử dụng phương pháp định lượng với việc xây dựng mô hình kiểm định bốn biến độc lập. Mẫu khảo sát được thu thập từ 213 doanh nghiệp có sử dụng ICDs khu vực TP. Hồ Chí Minh. Dữ liệu được xử lý bằng phần mềm SPSS 20 và AMOS 24. Thông qua nghiên cứu, kết luận rằng có bốn nhân tố, gồm: năng lực kết nối hạ tầng vận tải, năng lực vận hành hàng hoá container, năng lực hợp tác với các bên thuộc chuỗi cung ứng vận tải và năng lực cải tiến các yếu tố khác, ảnh hưởng đến lợi thế cạnh tranh của các ICD. Trên cơ sở đó, bài viết đưa ra một số hàm ý quản trị đối với ICDs khu vực TP. Hồ Chí Minh.
{"title":"Các nhân tố ảnh hưởng đến lợi thế cạnh tranh của các kho thông quan nội địa khu vực Thành phố Hồ Chí Minh","authors":"Nguyễn Thành Hưng","doi":"10.52932/jfm.vi70.320","DOIUrl":"https://doi.org/10.52932/jfm.vi70.320","url":null,"abstract":"Cuộc cách mạng container đã làm nổi bật vai trò của các kho thông quan nội địa (ICDs, viết tắt của Inland Clearance Depots) trong việc điều phối vận chuyển hiệu quả. Ngày nay, các container dần đi sâu hơn vào nội địa đã buộc các cảng biển phụ thuộc vào ICDs để xác định sức cạnh tranh của mình cũng như cung cấp một cơ chế giá cước vận chuyển cạnh tranh cho các khách hàng. Hoạt động của ICDs cần được cải thiện để theo kịp sự năng động của thương mại hàng hải, đáp ứng tốt nhu cầu của các bên trong hệ thống cảng container và duy trì lợi thế cạnh tranh bền vững của các cảng biển. Mục tiêu của bài viết này nhằm cải thiện vị thế của ICDs bằng việc xác định các nhân tố nâng cao lợi thế cạnh tranh của ICDs khu vực TP. Hồ Chí Minh. Bài viết sử dụng phương pháp định lượng với việc xây dựng mô hình kiểm định bốn biến độc lập. Mẫu khảo sát được thu thập từ 213 doanh nghiệp có sử dụng ICDs khu vực TP. Hồ Chí Minh. Dữ liệu được xử lý bằng phần mềm SPSS 20 và AMOS 24. Thông qua nghiên cứu, kết luận rằng có bốn nhân tố, gồm: năng lực kết nối hạ tầng vận tải, năng lực vận hành hàng hoá container, năng lực hợp tác với các bên thuộc chuỗi cung ứng vận tải và năng lực cải tiến các yếu tố khác, ảnh hưởng đến lợi thế cạnh tranh của các ICD. Trên cơ sở đó, bài viết đưa ra một số hàm ý quản trị đối với ICDs khu vực TP. Hồ Chí Minh.","PeriodicalId":362797,"journal":{"name":"Tạp chí Nghiên cứu Tài chính - Marketing","volume":"33 1","pages":"0"},"PeriodicalIF":0.0,"publicationDate":"2022-08-25","publicationTypes":"Journal Article","fieldsOfStudy":null,"isOpenAccess":false,"openAccessPdf":"","citationCount":null,"resultStr":null,"platform":"Semanticscholar","paperid":"126783755","PeriodicalName":null,"FirstCategoryId":null,"ListUrlMain":null,"RegionNum":0,"RegionCategory":"","ArticlePicture":[],"TitleCN":null,"AbstractTextCN":null,"PMCID":"","EPubDate":null,"PubModel":null,"JCR":null,"JCRName":null,"Score":null,"Total":0}