Pub Date : 2021-05-08DOI: 10.26459/HUEUNIJARD.V129I3C.6047
N. Binh, Le Dinh Huy, Hoang Dao Nhat Linh
The research was conducted to analyse the satisfaction of people to public service provided by branch of Land registration authority in Bo Trach district, Quang Binh province through 155 questionnaires applied on people who used the these services. The multiple regression model indicated there are 5 factors that affect to the satisfaction of people in the research site. The importance of the factors are different. The result showed that the most important factor is the Facility (0.335) followed by the Service quality (0.331) and the Staff capacity (0.177), the Confidence (0.170) and the Procedural process (0.155). There is no difference among genders, ages, education and qualifications, careers and living spaces on satisfaction.
{"title":"ANALYSING THE SATISFACTION OF PEOPLE TO PUBLIC SERVICES PROVIDED BY BRANCH OF LAND REGISTRATION AUTHORITY IN BO TRACH DISTRICT, QUANG BINH PROVINCE","authors":"N. Binh, Le Dinh Huy, Hoang Dao Nhat Linh","doi":"10.26459/HUEUNIJARD.V129I3C.6047","DOIUrl":"https://doi.org/10.26459/HUEUNIJARD.V129I3C.6047","url":null,"abstract":"The research was conducted to analyse the satisfaction of people to public service provided by branch of Land registration authority in Bo Trach district, Quang Binh province through 155 questionnaires applied on people who used the these services. The multiple regression model indicated there are 5 factors that affect to the satisfaction of people in the research site. The importance of the factors are different. The result showed that the most important factor is the Facility (0.335) followed by the Service quality (0.331) and the Staff capacity (0.177), the Confidence (0.170) and the Procedural process (0.155). There is no difference among genders, ages, education and qualifications, careers and living spaces on satisfaction.","PeriodicalId":419243,"journal":{"name":"Hue University Journal of Science: Agriculture and Rural Development","volume":"138 1","pages":"0"},"PeriodicalIF":0.0,"publicationDate":"2021-05-08","publicationTypes":"Journal Article","fieldsOfStudy":null,"isOpenAccess":false,"openAccessPdf":"","citationCount":null,"resultStr":null,"platform":"Semanticscholar","paperid":"123628500","PeriodicalName":null,"FirstCategoryId":null,"ListUrlMain":null,"RegionNum":0,"RegionCategory":"","ArticlePicture":[],"TitleCN":null,"AbstractTextCN":null,"PMCID":"","EPubDate":null,"PubModel":null,"JCR":null,"JCRName":null,"Score":null,"Total":0}
Pub Date : 2021-04-28DOI: 10.26459/HUEUNIJARD.V130I3B.6057
Thị Thuỳ Dương Nguyễn, Mạc Như Bình
Nghiên cứu nhằm xác định ảnh hưởng của mật độ ban đầu và cường độ chiếu sáng đến sinh trưởng của vi tảo Nannochloropsis oculata. Tảo được nuôi trong can nhựa có thể tích 20 L với 3 mức mật độ ban đầu khác nhau: 7,5×104 tb/mL (NT1); 8,5×104 tb/mL (NT2) và 9,5×104 tb/mL (NT3). Kết quả nghiên cứu cho thấy tảo Nannochloropsis oculata nuôi ở mật độ 8,5×104 tb/mL đạt mật độ cực đại cao nhất ở ngày nuôi thứ 10, có pha cân bằng ổn định hơn 2 nghiệm thức còn lại. Mật độ cực đại của 3 nghiệm thức lần lượt là 205,82±0,18×104 tb/mL; 267,24±0,37×104 tb/mL; 259,18±0,13×104 tb/mL. Thí nghiệm nuôi tảo ở 3 mức cường độ chiếu sáng 2000 lux (NT1), 3000 lux (NT2) và 4000 lux (NT3) cho thấy tảo Nannochloropsis oculata ở cường độ chiếu sáng 3000 lux đạt mật độ cực đại sớm nhất ở ngày nuôi thứ 10 (283,27±0,05×104 tb/mL), có pha cân bằng ổn định. Trong khi đó, tảo nuôi ở cường độ chiếu sáng 4000 lux đạt mật độ cực đại là 235,32±0,11×104 tb/mL, thấp nhất là ở cường độ 2000 lux, tảo chỉ đạt mật độ cực đại 226,12±0,20×104 tb/mL.
{"title":"ẢNH HƯỞNG CỦA MẬT ĐỘ BAN ĐẦU VÀ CƯỜNG ĐỘ CHIẾU SÁNG ĐẾN SINH TRƯỞNG CỦA VI TẢO Nannochloropsis oculata","authors":"Thị Thuỳ Dương Nguyễn, Mạc Như Bình","doi":"10.26459/HUEUNIJARD.V130I3B.6057","DOIUrl":"https://doi.org/10.26459/HUEUNIJARD.V130I3B.6057","url":null,"abstract":"Nghiên cứu nhằm xác định ảnh hưởng của mật độ ban đầu và cường độ chiếu sáng đến sinh trưởng của vi tảo Nannochloropsis oculata. Tảo được nuôi trong can nhựa có thể tích 20 L với 3 mức mật độ ban đầu khác nhau: 7,5×104 tb/mL (NT1); 8,5×104 tb/mL (NT2) và 9,5×104 tb/mL (NT3). Kết quả nghiên cứu cho thấy tảo Nannochloropsis oculata nuôi ở mật độ 8,5×104 tb/mL đạt mật độ cực đại cao nhất ở ngày nuôi thứ 10, có pha cân bằng ổn định hơn 2 nghiệm thức còn lại. Mật độ cực đại của 3 nghiệm thức lần lượt là 205,82±0,18×104 tb/mL; 267,24±0,37×104 tb/mL; 259,18±0,13×104 tb/mL. Thí nghiệm nuôi tảo ở 3 mức cường độ chiếu sáng 2000 lux (NT1), 3000 lux (NT2) và 4000 lux (NT3) cho thấy tảo Nannochloropsis oculata ở cường độ chiếu sáng 3000 lux đạt mật độ cực đại sớm nhất ở ngày nuôi thứ 10 (283,27±0,05×104 tb/mL), có pha cân bằng ổn định. Trong khi đó, tảo nuôi ở cường độ chiếu sáng 4000 lux đạt mật độ cực đại là 235,32±0,11×104 tb/mL, thấp nhất là ở cường độ 2000 lux, tảo chỉ đạt mật độ cực đại 226,12±0,20×104 tb/mL.","PeriodicalId":419243,"journal":{"name":"Hue University Journal of Science: Agriculture and Rural Development","volume":"6 1","pages":"0"},"PeriodicalIF":0.0,"publicationDate":"2021-04-28","publicationTypes":"Journal Article","fieldsOfStudy":null,"isOpenAccess":false,"openAccessPdf":"","citationCount":null,"resultStr":null,"platform":"Semanticscholar","paperid":"122287498","PeriodicalName":null,"FirstCategoryId":null,"ListUrlMain":null,"RegionNum":0,"RegionCategory":"","ArticlePicture":[],"TitleCN":null,"AbstractTextCN":null,"PMCID":"","EPubDate":null,"PubModel":null,"JCR":null,"JCRName":null,"Score":null,"Total":0}
Pub Date : 2021-04-28DOI: 10.26459/HUEUNIJARD.V130I3B.6024
Nguyễn Quang Lịch, Vệ Quốc Linh, Trần Đức Hạnh, Nguyễn Vũ Quốc Huy, Nguyễn Văn Khanh, Lê Văn Tuấn, Chử Thị Thu Hường
Mục đích của nghiên cứu này nhằm đánh giá hiệu quả của hệ thống kết hợp than sinh học (biochar) và hồ sinh học bèo tây (Eichhornia crassipes) trong việc xử lý nước thải chăn nuôi lợn sau hầm biogas. Kết quả nghiên cứu thực nghiệm cho thấy nước thải đầu ra đạt quy chuẩn cho phép sau 7 giờ xử lý bằng hệ thống xử lý kết hợp. Độ pH của nước thải luôn ổn định trong khoảng từ 6,9 đến 7,2. Trong khi hiệu suất xử lý tổng Phốt pho chỉ đạt 58.8%, hiệu suất xử lý của các thông số ô nhiễm khác như BOD5, TSS, COD, tổng Nitơ và Amoni đều đạt hiệu quả khá cao, lần lượt là 83,6 %, 88,9 %, 69,3 %, 88.3 % và 98.1 %. Đáng chú ý là hiệu suất xử lý Coliform đạt gần 100%. Với thời gian xử lý ngắn và hiệu suất xử lý cao, hệ thống xử lý nước thải chăn nuôi lợn kết hợp giữa than sinh học và hồ sinh học bèo dâu có triển vọng ứng dụng rộng rãi trong thực tiễn.
{"title":"ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CỦA HỆ THỐNG KẾT HỢP THAN SINH HỌC (BIOCHAR) VÀ HỒ LỌC SINH HỌC TRONG XỬ LÝ NƯỚC THẢI CHĂN NUÔI LỢN SAU HẦM BIOGAS","authors":"Nguyễn Quang Lịch, Vệ Quốc Linh, Trần Đức Hạnh, Nguyễn Vũ Quốc Huy, Nguyễn Văn Khanh, Lê Văn Tuấn, Chử Thị Thu Hường","doi":"10.26459/HUEUNIJARD.V130I3B.6024","DOIUrl":"https://doi.org/10.26459/HUEUNIJARD.V130I3B.6024","url":null,"abstract":"Mục đích của nghiên cứu này nhằm đánh giá hiệu quả của hệ thống kết hợp than sinh học (biochar) và hồ sinh học bèo tây (Eichhornia crassipes) trong việc xử lý nước thải chăn nuôi lợn sau hầm biogas. Kết quả nghiên cứu thực nghiệm cho thấy nước thải đầu ra đạt quy chuẩn cho phép sau 7 giờ xử lý bằng hệ thống xử lý kết hợp. Độ pH của nước thải luôn ổn định trong khoảng từ 6,9 đến 7,2. Trong khi hiệu suất xử lý tổng Phốt pho chỉ đạt 58.8%, hiệu suất xử lý của các thông số ô nhiễm khác như BOD5, TSS, COD, tổng Nitơ và Amoni đều đạt hiệu quả khá cao, lần lượt là 83,6 %, 88,9 %, 69,3 %, 88.3 % và 98.1 %. Đáng chú ý là hiệu suất xử lý Coliform đạt gần 100%. Với thời gian xử lý ngắn và hiệu suất xử lý cao, hệ thống xử lý nước thải chăn nuôi lợn kết hợp giữa than sinh học và hồ sinh học bèo dâu có triển vọng ứng dụng rộng rãi trong thực tiễn.","PeriodicalId":419243,"journal":{"name":"Hue University Journal of Science: Agriculture and Rural Development","volume":"16 1","pages":"0"},"PeriodicalIF":0.0,"publicationDate":"2021-04-28","publicationTypes":"Journal Article","fieldsOfStudy":null,"isOpenAccess":false,"openAccessPdf":"","citationCount":null,"resultStr":null,"platform":"Semanticscholar","paperid":"125606286","PeriodicalName":null,"FirstCategoryId":null,"ListUrlMain":null,"RegionNum":0,"RegionCategory":"","ArticlePicture":[],"TitleCN":null,"AbstractTextCN":null,"PMCID":"","EPubDate":null,"PubModel":null,"JCR":null,"JCRName":null,"Score":null,"Total":0}
Pub Date : 2021-04-26DOI: 10.26459/HUEUNIJARD.V129I3C.6138
Tran Cao Uy, L. V. Nam, Duong Ngoc Phuoc, Le Thi Hong Phuong, Hoang Dung Ha, Le Viet Linh, Tran Ngo Le Thuy Tien
This study was conducted to reinforce the hypothesis that ecotourism in Quang Loi commune’s lagoon created differences in income and lagoon resource protection of different beneficiary groups. Data was collected through secondary sources, 3 key informant interviews and interviews of 62 households in three household groups: tourism service, fishing, and aquaculture households. The results reveal that ecotourism services in Quang Loi commune started in 2010 and thrive since 2017, relying on the advantages of the local natural resources. Local community organized and provided tourism services such as: sightseeing on the lagoon, fishing experience, dining and accommodation, and some other services. By joining such services, labors in ecotourism service households earned 39.07 million VND/ year, which significant contributed to improve household’s income. Ecotourism service households, therefore, had higher income than that of fishing group and aquaculture group (85.15 compared to 72.29 and 60 million VND, respectively; p value < 0.05). The lagoon environmental protection activities such as: lagoon night patrol, waste collection, propaganda and advocating for lagoon environmental protection, etc. were paid more attention by the local community since the development of ecotourism. Similarly, there was a significant higher participation time of tourism service households in the above activities in comparison with the rest groups (p value < 0.05). The lagoon environment and resources was assessed to be improved by local residents. This result implicates that ecotourism development is a suitable strategy to improve the local people's livelihood and Tam Giang lagoon resources protection currently.
{"title":"ROLES OF ECOTOURISM IN HOUSEHOLD INCOME IMPROVEMENT AND NATURAL RESOURCES PROTECTION IN TAM GIANG LAGOON OF QUANG LOI COMMUNE, QUANG DIEN DISTRICT, THUA THIEN HUE PROVINCE","authors":"Tran Cao Uy, L. V. Nam, Duong Ngoc Phuoc, Le Thi Hong Phuong, Hoang Dung Ha, Le Viet Linh, Tran Ngo Le Thuy Tien","doi":"10.26459/HUEUNIJARD.V129I3C.6138","DOIUrl":"https://doi.org/10.26459/HUEUNIJARD.V129I3C.6138","url":null,"abstract":"This study was conducted to reinforce the hypothesis that ecotourism in Quang Loi commune’s lagoon created differences in income and lagoon resource protection of different beneficiary groups. Data was collected through secondary sources, 3 key informant interviews and interviews of 62 households in three household groups: tourism service, fishing, and aquaculture households. The results reveal that ecotourism services in Quang Loi commune started in 2010 and thrive since 2017, relying on the advantages of the local natural resources. Local community organized and provided tourism services such as: sightseeing on the lagoon, fishing experience, dining and accommodation, and some other services. By joining such services, labors in ecotourism service households earned 39.07 million VND/ year, which significant contributed to improve household’s income. Ecotourism service households, therefore, had higher income than that of fishing group and aquaculture group (85.15 compared to 72.29 and 60 million VND, respectively; p value < 0.05). The lagoon environmental protection activities such as: lagoon night patrol, waste collection, propaganda and advocating for lagoon environmental protection, etc. were paid more attention by the local community since the development of ecotourism. Similarly, there was a significant higher participation time of tourism service households in the above activities in comparison with the rest groups (p value < 0.05). The lagoon environment and resources was assessed to be improved by local residents. This result implicates that ecotourism development is a suitable strategy to improve the local people's livelihood and Tam Giang lagoon resources protection currently.","PeriodicalId":419243,"journal":{"name":"Hue University Journal of Science: Agriculture and Rural Development","volume":"7 1","pages":"0"},"PeriodicalIF":0.0,"publicationDate":"2021-04-26","publicationTypes":"Journal Article","fieldsOfStudy":null,"isOpenAccess":false,"openAccessPdf":"","citationCount":null,"resultStr":null,"platform":"Semanticscholar","paperid":"121790856","PeriodicalName":null,"FirstCategoryId":null,"ListUrlMain":null,"RegionNum":0,"RegionCategory":"","ArticlePicture":[],"TitleCN":null,"AbstractTextCN":null,"PMCID":"","EPubDate":null,"PubModel":null,"JCR":null,"JCRName":null,"Score":null,"Total":0}
Pub Date : 2021-04-14DOI: 10.26459/HUEUNIJARD.V130I3A.5960
Huỳnh Văn Chương, Trần Thị Minh Châu, Hồ Việt Hoàng, Trần Thị Ánh Tuyết, Lê Ly Đa
Nghiên cứu này tập trung phân tích tình hình thực hiện công tác cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình, cá nhân tại huyện Krông Buk để làm cơ sở đề xuất được các giải pháp hoàn thiện công tác quản lý đất đai. Các phương pháp nghiên cứu bao gồm: thu thập số liệu sơ cấp và thứ cấp; phương pháp tổng hợp và xử lý số liệu; phương pháp so sánh thống kê mô tả. Kết quả nghiên cứu cho thấy, giai đoạn 2016–2019, huyện đã tiến hành cấp được 5.171 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho 4.082,6 ha. Số lượng và diện tích được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có xu hướng tăng lên trong giai từ năm 2016 gồm 1.333 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với 970,1 ha đến năm 2018 gồm 1.552 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và 1.101,1 ha. Theo kết quả từ khảo sát hộ gia đình, cá nhân thì hình thức cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chủ yếu là kiểu tập trung, người dân tự đi làm thủ tục tại một của Uỷ ban nhân dân huyện. Để nâng cao hiệu quả công tác cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình, cá nhân trên địa bàn huyện Krông Buk, nghiên cứu đã đề xuất được 4 nhóm giải pháp cụ thể.
{"title":"ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH THỰC HIỆN CÔNG TÁC CẤP GIẤY CHỨNG NHẬN QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT CHO HỘ GIA ĐÌNH, CÁ NHÂN TẠI HUYỆN KRÔNG BUK, TỈNH ĐẮK LẮK","authors":"Huỳnh Văn Chương, Trần Thị Minh Châu, Hồ Việt Hoàng, Trần Thị Ánh Tuyết, Lê Ly Đa","doi":"10.26459/HUEUNIJARD.V130I3A.5960","DOIUrl":"https://doi.org/10.26459/HUEUNIJARD.V130I3A.5960","url":null,"abstract":"Nghiên cứu này tập trung phân tích tình hình thực hiện công tác cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình, cá nhân tại huyện Krông Buk để làm cơ sở đề xuất được các giải pháp hoàn thiện công tác quản lý đất đai. Các phương pháp nghiên cứu bao gồm: thu thập số liệu sơ cấp và thứ cấp; phương pháp tổng hợp và xử lý số liệu; phương pháp so sánh thống kê mô tả. Kết quả nghiên cứu cho thấy, giai đoạn 2016–2019, huyện đã tiến hành cấp được 5.171 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho 4.082,6 ha. Số lượng và diện tích được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có xu hướng tăng lên trong giai từ năm 2016 gồm 1.333 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với 970,1 ha đến năm 2018 gồm 1.552 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và 1.101,1 ha. Theo kết quả từ khảo sát hộ gia đình, cá nhân thì hình thức cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chủ yếu là kiểu tập trung, người dân tự đi làm thủ tục tại một của Uỷ ban nhân dân huyện. Để nâng cao hiệu quả công tác cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình, cá nhân trên địa bàn huyện Krông Buk, nghiên cứu đã đề xuất được 4 nhóm giải pháp cụ thể.","PeriodicalId":419243,"journal":{"name":"Hue University Journal of Science: Agriculture and Rural Development","volume":"444 1","pages":"0"},"PeriodicalIF":0.0,"publicationDate":"2021-04-14","publicationTypes":"Journal Article","fieldsOfStudy":null,"isOpenAccess":false,"openAccessPdf":"","citationCount":null,"resultStr":null,"platform":"Semanticscholar","paperid":"124543519","PeriodicalName":null,"FirstCategoryId":null,"ListUrlMain":null,"RegionNum":0,"RegionCategory":"","ArticlePicture":[],"TitleCN":null,"AbstractTextCN":null,"PMCID":"","EPubDate":null,"PubModel":null,"JCR":null,"JCRName":null,"Score":null,"Total":0}
Pub Date : 2021-04-13DOI: 10.26459/HUEUNIJARD.V130I3A.5943
Hoàng Thị Thái Hòa, Đỗ Đình Thục, Trần Thị Thu Giang, Huỳnh Yến Nhi
Thí nghiệm 2 nhân tố gồm có 8 công thức với 2 dạng phân bón lá sinh học chiết rút từ rong biển và bèo tây và 4 tỷ lệ phun, bố trí theo kiểu khối hoàn toàn ngẫu nhiên (RCBD), 3 lần nhắc lại, được tiến hành trong năm 2020 tại thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế, nhằm mục đích xác định được dạng và tỷ lệ phân bón lá phù hợp cho cây rau xà lách. Kết quả nghiên cứu cho thấy, năng suất và chất lượng rau xà lách phụ thuộc vào dạng phânbón lá sinh học và tỷ lệ phun từ dịch chiết của rong biển, bèo tây với nước lã. Năng suất, chất lượng rau và hiệu quả kinh tế đạt cao nhất tại tỷ lệ phun 1:10 ở cả hai dạng phân bón lá sinh học chiết rút từ rong biển và bèo tây, đặc biệt tại dạng phân bón lá sinh học chiết rút từ rong biển (năng suất kinh tế của xà lách đạt 40,23 g/chậu, lãi 600 đ/chậu, hàm lượng nitratee trong phạm vi tiêu chuẩn cho phép <1000 mg/kg, độ giòn đạt điểm 4–5, độ Brix từ 2–2,5%). Do đó, đề xuất dạng phân bón lá sinh học chiết rút từ rong biển tại lượng phun 1:10 trên nền bón 500 kg vôi +15 tấn phân chuồngtrên 1 ha để đạt được năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế cao nhất.
{"title":"NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA TỶ LỆ PHUN PHÂN BÓN LÁ SINH HỌC TỪ RONG BIỂN VÀ BÈO TÂY ĐẾN CÂY RAU XÀ LÁCH TẠI THÀNH PHỐ HUẾ, TỈNH THỪA THIÊN HUẾ","authors":"Hoàng Thị Thái Hòa, Đỗ Đình Thục, Trần Thị Thu Giang, Huỳnh Yến Nhi","doi":"10.26459/HUEUNIJARD.V130I3A.5943","DOIUrl":"https://doi.org/10.26459/HUEUNIJARD.V130I3A.5943","url":null,"abstract":"Thí nghiệm 2 nhân tố gồm có 8 công thức với 2 dạng phân bón lá sinh học chiết rút từ rong biển và bèo tây và 4 tỷ lệ phun, bố trí theo kiểu khối hoàn toàn ngẫu nhiên (RCBD), 3 lần nhắc lại, được tiến hành trong năm 2020 tại thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế, nhằm mục đích xác định được dạng và tỷ lệ phân bón lá phù hợp cho cây rau xà lách. Kết quả nghiên cứu cho thấy, năng suất và chất lượng rau xà lách phụ thuộc vào dạng phânbón lá sinh học và tỷ lệ phun từ dịch chiết của rong biển, bèo tây với nước lã. Năng suất, chất lượng rau và hiệu quả kinh tế đạt cao nhất tại tỷ lệ phun 1:10 ở cả hai dạng phân bón lá sinh học chiết rút từ rong biển và bèo tây, đặc biệt tại dạng phân bón lá sinh học chiết rút từ rong biển (năng suất kinh tế của xà lách đạt 40,23 g/chậu, lãi 600 đ/chậu, hàm lượng nitratee trong phạm vi tiêu chuẩn cho phép <1000 mg/kg, độ giòn đạt điểm 4–5, độ Brix từ 2–2,5%). Do đó, đề xuất dạng phân bón lá sinh học chiết rút từ rong biển tại lượng phun 1:10 trên nền bón 500 kg vôi +15 tấn phân chuồngtrên 1 ha để đạt được năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế cao nhất.","PeriodicalId":419243,"journal":{"name":"Hue University Journal of Science: Agriculture and Rural Development","volume":"30 1","pages":"0"},"PeriodicalIF":0.0,"publicationDate":"2021-04-13","publicationTypes":"Journal Article","fieldsOfStudy":null,"isOpenAccess":false,"openAccessPdf":"","citationCount":null,"resultStr":null,"platform":"Semanticscholar","paperid":"133368078","PeriodicalName":null,"FirstCategoryId":null,"ListUrlMain":null,"RegionNum":0,"RegionCategory":"","ArticlePicture":[],"TitleCN":null,"AbstractTextCN":null,"PMCID":"","EPubDate":null,"PubModel":null,"JCR":null,"JCRName":null,"Score":null,"Total":0}
Pub Date : 2021-04-13DOI: 10.26459/HUEUNIJARD.V130I3A.5948
Lê Ngọc Phương Qúy, Mai Thị Khánh Vân, Tăng Thuý Vy
Giao đất lâm nghiệp cho đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) là chính sách quan trọng của Nhà nước Việt Nam nhằm hỗ trợ các đối tượng này cải thiện đời sống, xóa đói giảm nghèo. Nghiên cứu được thực hiện tại khu vực sinh sống của đồng bào DTTS Cơ Tu, thuộc địa bàn xã Cà Dy, huyện Nam Giang, tỉnh Quảng Nam. Thông tin nghiên cứu được thu thập từ các tài liệu thứ cấp và phỏng vấn trực tiếp 40 hộ dân cùng 3 cán bộ địa phương. Kết quả chỉ ra rằng, từ năm 2016 đến 2019, xã Cà Dy có 365 hộ đồng bào DTTS Cơ Tu được giao đất lâm nghiệp để phát triển sinh kế. Diện tích được giao là 1.392,68 ha chiếm 9,72% tổng diện tích đất lâm nghiệp toàn xã. Có đất rừng, người dân có thêm tư liệu sản xuất, nhiều việc làm và thu nhập được tạo ra, đời sống cải thiện rõ rệt. Kết quả khả quan về kinh tế, môi trường và xã hội từ khi thực hiện đã cho thấy sự cần thiết và phù hợp của chương trình giao đất giao rừng ở xã Cà Dy. Một số khó khăn trong quá trình thực hiện đến từ nội dung chương trình hay do công tác quản lý cũng được nghiên cứu chỉ ra, từ đó, các kiến nghị được đề xuất nhằm cải thiện việc giao đất lâm nghiệp trong thời gian sắp tới.
{"title":"TÌNH HÌNH THỰC HIỆN GIAO ĐẤT LÂM NGHIỆP CHO ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ CƠ TU TRÊN ĐỊA BÀN XÃ CÀ DY, HUYỆN NAM GIANG, TỈNH QUẢNG NAM","authors":"Lê Ngọc Phương Qúy, Mai Thị Khánh Vân, Tăng Thuý Vy","doi":"10.26459/HUEUNIJARD.V130I3A.5948","DOIUrl":"https://doi.org/10.26459/HUEUNIJARD.V130I3A.5948","url":null,"abstract":"Giao đất lâm nghiệp cho đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) là chính sách quan trọng của Nhà nước Việt Nam nhằm hỗ trợ các đối tượng này cải thiện đời sống, xóa đói giảm nghèo. Nghiên cứu được thực hiện tại khu vực sinh sống của đồng bào DTTS Cơ Tu, thuộc địa bàn xã Cà Dy, huyện Nam Giang, tỉnh Quảng Nam. Thông tin nghiên cứu được thu thập từ các tài liệu thứ cấp và phỏng vấn trực tiếp 40 hộ dân cùng 3 cán bộ địa phương. Kết quả chỉ ra rằng, từ năm 2016 đến 2019, xã Cà Dy có 365 hộ đồng bào DTTS Cơ Tu được giao đất lâm nghiệp để phát triển sinh kế. Diện tích được giao là 1.392,68 ha chiếm 9,72% tổng diện tích đất lâm nghiệp toàn xã. Có đất rừng, người dân có thêm tư liệu sản xuất, nhiều việc làm và thu nhập được tạo ra, đời sống cải thiện rõ rệt. Kết quả khả quan về kinh tế, môi trường và xã hội từ khi thực hiện đã cho thấy sự cần thiết và phù hợp của chương trình giao đất giao rừng ở xã Cà Dy. Một số khó khăn trong quá trình thực hiện đến từ nội dung chương trình hay do công tác quản lý cũng được nghiên cứu chỉ ra, từ đó, các kiến nghị được đề xuất nhằm cải thiện việc giao đất lâm nghiệp trong thời gian sắp tới.","PeriodicalId":419243,"journal":{"name":"Hue University Journal of Science: Agriculture and Rural Development","volume":"28 1","pages":"0"},"PeriodicalIF":0.0,"publicationDate":"2021-04-13","publicationTypes":"Journal Article","fieldsOfStudy":null,"isOpenAccess":false,"openAccessPdf":"","citationCount":null,"resultStr":null,"platform":"Semanticscholar","paperid":"116448464","PeriodicalName":null,"FirstCategoryId":null,"ListUrlMain":null,"RegionNum":0,"RegionCategory":"","ArticlePicture":[],"TitleCN":null,"AbstractTextCN":null,"PMCID":"","EPubDate":null,"PubModel":null,"JCR":null,"JCRName":null,"Score":null,"Total":0}
Pub Date : 2021-04-12DOI: 10.26459/HUEUNIJARD.V130I3A.5871
Tôn Thất Chất, Nguyễn Tý, Hầu Hàn Ny, Nguyễn Duy Quỳnh Trâm, Nguyễn Thị Thanh Thủy, Võ Đức Nghĩa, Lê Tấn Phát
Năm loài hàu đang được nuôi ở đầm Lập An bao gồm Hàu Cửa Sông (Crassotrea rivularis), Hàu sữa Thái Bình Dương (Crassotrea gigas), Hàu Mỏ vịt (Crassotrea sp1.), Hàu Ốc (Crassotrea sp2.) và Hàu Đá (Saccostrea cucullata), trong đó Hàu Cửa sông (Crassotrea rivularis) là loài xuất hiện nhiều nhất. Hàu được nuôi phổ biến trên giá thể lốp cao su. Tổng diện tích nuôi là 129 ha với trung bình 2,08 ha/hộ. Hàu đang được nuôi ở năm thôn với diện tích khác nhau: lớn nhất là 35,8 ha (28%) và nhỏ nhất là 16,1 ha (12%). Sản lượng hàu nuôi cao nhất là 11,06 tấn/vụ/hộ và thấp nhất là 5,56 tấn/vụ/hộ. Năng suất cao nhất là 4,46 tấn/ha/hộ và thấp nhất là 3,81 tấn/ha/hộ. Thu nhập cao nhất là 128,5 triệu đồng/vụ/hộ và thấp nhất là 37,3 triệu đồng/vụ/hộ. Tỷ suất lợi nhuận trung bình cao nhất là 7,1 và thấp nhất là 3,02
{"title":"HIỆN TRẠNG NUÔI HÀU TẠI ĐẦM LẬP AN, THỊ TRẤN LĂNG CÔ HUYỆN PHÚ LỘC, TỈNH THỪA THIÊN HUẾ","authors":"Tôn Thất Chất, Nguyễn Tý, Hầu Hàn Ny, Nguyễn Duy Quỳnh Trâm, Nguyễn Thị Thanh Thủy, Võ Đức Nghĩa, Lê Tấn Phát","doi":"10.26459/HUEUNIJARD.V130I3A.5871","DOIUrl":"https://doi.org/10.26459/HUEUNIJARD.V130I3A.5871","url":null,"abstract":"Năm loài hàu đang được nuôi ở đầm Lập An bao gồm Hàu Cửa Sông (Crassotrea rivularis), Hàu sữa Thái Bình Dương (Crassotrea gigas), Hàu Mỏ vịt (Crassotrea sp1.), Hàu Ốc (Crassotrea sp2.) và Hàu Đá (Saccostrea cucullata), trong đó Hàu Cửa sông (Crassotrea rivularis) là loài xuất hiện nhiều nhất. Hàu được nuôi phổ biến trên giá thể lốp cao su. Tổng diện tích nuôi là 129 ha với trung bình 2,08 ha/hộ. Hàu đang được nuôi ở năm thôn với diện tích khác nhau: lớn nhất là 35,8 ha (28%) và nhỏ nhất là 16,1 ha (12%). Sản lượng hàu nuôi cao nhất là 11,06 tấn/vụ/hộ và thấp nhất là 5,56 tấn/vụ/hộ. Năng suất cao nhất là 4,46 tấn/ha/hộ và thấp nhất là 3,81 tấn/ha/hộ. Thu nhập cao nhất là 128,5 triệu đồng/vụ/hộ và thấp nhất là 37,3 triệu đồng/vụ/hộ. Tỷ suất lợi nhuận trung bình cao nhất là 7,1 và thấp nhất là 3,02","PeriodicalId":419243,"journal":{"name":"Hue University Journal of Science: Agriculture and Rural Development","volume":"14 1","pages":"0"},"PeriodicalIF":0.0,"publicationDate":"2021-04-12","publicationTypes":"Journal Article","fieldsOfStudy":null,"isOpenAccess":false,"openAccessPdf":"","citationCount":null,"resultStr":null,"platform":"Semanticscholar","paperid":"134076913","PeriodicalName":null,"FirstCategoryId":null,"ListUrlMain":null,"RegionNum":0,"RegionCategory":"","ArticlePicture":[],"TitleCN":null,"AbstractTextCN":null,"PMCID":"","EPubDate":null,"PubModel":null,"JCR":null,"JCRName":null,"Score":null,"Total":0}
Pub Date : 2021-04-12DOI: 10.26459/HUEUNIJARD.V130I3A.5929
Trần Thị Xuân Phương, Đặng Thị Minh Chinh, Châu Võ Trung Thông, Nguyễn Thị Ngọc Bích, Hồ Việt Hoàng
Nghiên cứu này được thực hiện nhằm đánh giá thực trạng quản lí và sử dụng đất nghĩa trang, nghĩa địa (đất NTD) của các cộng đồng dân tộc trên địa bàn huyện Minh Hóa, tỉnh Quảng Bình. Nghiên cứu đã thực hiện tham vấn ý kiến của chính quyền địa phương về thực trạng quản lý và sử dụng đất NTD ở huyện Minh Hóa; phỏng vấn 160 hộ dân người dân tộc Kinh, Chứt và Bru-Vân Kiều theo phương pháp lựa chọn ngẫu nhiên. Kết quả nghiên cứu cho thấy, tình trạng chôn cất trái quy định vẫn còn xảy ra; việc cắm mốc đất NTD chưa được thực hiện trên địa bàn nhiều xã; việc quản lý và di dời giải tỏa mồ mả xen lẫn trong các loại đất khác còn nhiều bất cập. Việc lựa chọn kiến trúc xây dựng, diện tích lăng mộ, lựa chọn địa điểm chôn cất và phong tục táng gần giống nhau giữa người Kinh với người Chứt, nhưng lại rất khác với cộng đồng người Bru-Vân Kiều. Từ thực trạng quản lý đất NTD của các xã, nghiên cứu này đã đề xuất được một số giải pháp quản lý và sử dung đất NTD phù hợp với tình hình thực tiễn của huyện Minh Hóa.
{"title":"THỰC TRẠNG QUẢN LÝ VÀ SỬ DỤNG ĐẤT NGHĨA TRANG, NGHĨA ĐỊA CỦA CÁC CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN MINH HÓA, TỈNH QUẢNG BÌNH","authors":"Trần Thị Xuân Phương, Đặng Thị Minh Chinh, Châu Võ Trung Thông, Nguyễn Thị Ngọc Bích, Hồ Việt Hoàng","doi":"10.26459/HUEUNIJARD.V130I3A.5929","DOIUrl":"https://doi.org/10.26459/HUEUNIJARD.V130I3A.5929","url":null,"abstract":"Nghiên cứu này được thực hiện nhằm đánh giá thực trạng quản lí và sử dụng đất nghĩa trang, nghĩa địa (đất NTD) của các cộng đồng dân tộc trên địa bàn huyện Minh Hóa, tỉnh Quảng Bình. Nghiên cứu đã thực hiện tham vấn ý kiến của chính quyền địa phương về thực trạng quản lý và sử dụng đất NTD ở huyện Minh Hóa; phỏng vấn 160 hộ dân người dân tộc Kinh, Chứt và Bru-Vân Kiều theo phương pháp lựa chọn ngẫu nhiên. Kết quả nghiên cứu cho thấy, tình trạng chôn cất trái quy định vẫn còn xảy ra; việc cắm mốc đất NTD chưa được thực hiện trên địa bàn nhiều xã; việc quản lý và di dời giải tỏa mồ mả xen lẫn trong các loại đất khác còn nhiều bất cập. Việc lựa chọn kiến trúc xây dựng, diện tích lăng mộ, lựa chọn địa điểm chôn cất và phong tục táng gần giống nhau giữa người Kinh với người Chứt, nhưng lại rất khác với cộng đồng người Bru-Vân Kiều. Từ thực trạng quản lý đất NTD của các xã, nghiên cứu này đã đề xuất được một số giải pháp quản lý và sử dung đất NTD phù hợp với tình hình thực tiễn của huyện Minh Hóa.","PeriodicalId":419243,"journal":{"name":"Hue University Journal of Science: Agriculture and Rural Development","volume":"130 1","pages":"0"},"PeriodicalIF":0.0,"publicationDate":"2021-04-12","publicationTypes":"Journal Article","fieldsOfStudy":null,"isOpenAccess":false,"openAccessPdf":"","citationCount":null,"resultStr":null,"platform":"Semanticscholar","paperid":"129947534","PeriodicalName":null,"FirstCategoryId":null,"ListUrlMain":null,"RegionNum":0,"RegionCategory":"","ArticlePicture":[],"TitleCN":null,"AbstractTextCN":null,"PMCID":"","EPubDate":null,"PubModel":null,"JCR":null,"JCRName":null,"Score":null,"Total":0}
Pub Date : 2021-04-08DOI: 10.26459/HUEUNIJARD.V130I3A.5827
Lương Thị Thủy, Trương Thị Hồng Hải
Bài báo này trình bày kết quả khảo sát bước đầu về đàn gà Tre Quảng Nam tại ba huyện thuộc vùng Trung du, gồm Tiên Phước, Nông Sơn và Quế Sơn. Thông tin được thu thập từ 90 hộ chăn nuôi về tổng đàn gà và số lượng gà Tre của từng huyện. Nghiên cứu mô tả ngoại hình của Gà tre Quảng Nam, các phương thức chăn nuôi, phòng trừ dịch bệnh, mục đích chăn nuôi và thị trường tiêu thụ. Mặc dù giá gà cao, kể cả gà thịt và gà giống, nhưng thị trường là khả quan. Tuy nhiên, số lượng gà nuôi đang ngày càng giảm.
{"title":"KẾT QUẢ KHẢO SÁT VỀ ĐÀN GÀ TRE TẠI TIÊN PHƯỚC, QUẾ SƠN VÀ NÔNG SƠN, TỈNH QUẢNG NAM","authors":"Lương Thị Thủy, Trương Thị Hồng Hải","doi":"10.26459/HUEUNIJARD.V130I3A.5827","DOIUrl":"https://doi.org/10.26459/HUEUNIJARD.V130I3A.5827","url":null,"abstract":"Bài báo này trình bày kết quả khảo sát bước đầu về đàn gà Tre Quảng Nam tại ba huyện thuộc vùng Trung du, gồm Tiên Phước, Nông Sơn và Quế Sơn. Thông tin được thu thập từ 90 hộ chăn nuôi về tổng đàn gà và số lượng gà Tre của từng huyện. Nghiên cứu mô tả ngoại hình của Gà tre Quảng Nam, các phương thức chăn nuôi, phòng trừ dịch bệnh, mục đích chăn nuôi và thị trường tiêu thụ. Mặc dù giá gà cao, kể cả gà thịt và gà giống, nhưng thị trường là khả quan. Tuy nhiên, số lượng gà nuôi đang ngày càng giảm.","PeriodicalId":419243,"journal":{"name":"Hue University Journal of Science: Agriculture and Rural Development","volume":"15 1","pages":"0"},"PeriodicalIF":0.0,"publicationDate":"2021-04-08","publicationTypes":"Journal Article","fieldsOfStudy":null,"isOpenAccess":false,"openAccessPdf":"","citationCount":null,"resultStr":null,"platform":"Semanticscholar","paperid":"125561264","PeriodicalName":null,"FirstCategoryId":null,"ListUrlMain":null,"RegionNum":0,"RegionCategory":"","ArticlePicture":[],"TitleCN":null,"AbstractTextCN":null,"PMCID":"","EPubDate":null,"PubModel":null,"JCR":null,"JCRName":null,"Score":null,"Total":0}