Theo Nallamuthu và Sidin (2002) doanh nghiệp quảng bá thương hiệu, sản phẩm thông qua sự chứng thực của người nổi tiếng là hình thức marketing hiệu quả. Đặc biệt trong hoạt động truyền thông mạng xã hội vai trò của những người nổi tiếng trực tuyến này càng phát huy mạnh mẽ hơn. Nhằm mục tiêu kiểm định sự tác động của thương hiệu người nổi tiếng trực tuyến đến dự định mua hàng của khách hàng trong môi trường tương tác ảo, nhóm tác giả đã thực hiện nghiên cứu định tính qua hình thức thảo luận nhóm sau đó tiến hành nghiên cứu định lượng với khảo sát trực tuyến 250 người tại TP.HCM trong lĩnh vực thực phẩm chức năng. Cuối cùng nhóm tác giả sử dụng mô hình cấu trúc tuyến tính PLS-SEM để phân tích dữ liệu thu về. Kết quả cho thấy động lực chính dẫn dắt hành vi và chuẩn chủ quan của khách hàng là Sự tự tương đồng lý tưởng với Tài sản thương hiệu người nổi tiếng trực tuyến bao gồm Nhận thức thương hiệu và Hình ảnh thương hiệu. Thông qua hành vi tương tác ảo, nhận thức thương hiệu người nổi tiếng được tăng lên. Nghiên cứu cũng đồng thời khẳng định sự thúc đẩy của thương hiệu người nổi tiếng đến dự định mua hàng của khách hàng.
{"title":"Ảnh hưởng thương hiệu người nổi tiếng trực tuyến lên động lực tham gia của khách hàng: Hành vi tương tác ảo và dự định mua hàng","authors":"Hoàng Cửu Long, Nhan Minh Nhựt","doi":"10.52932/jfm.vi67.240","DOIUrl":"https://doi.org/10.52932/jfm.vi67.240","url":null,"abstract":"Theo Nallamuthu và Sidin (2002) doanh nghiệp quảng bá thương hiệu, sản phẩm thông qua sự chứng thực của người nổi tiếng là hình thức marketing hiệu quả. Đặc biệt trong hoạt động truyền thông mạng xã hội vai trò của những người nổi tiếng trực tuyến này càng phát huy mạnh mẽ hơn. Nhằm mục tiêu kiểm định sự tác động của thương hiệu người nổi tiếng trực tuyến đến dự định mua hàng của khách hàng trong môi trường tương tác ảo, nhóm tác giả đã thực hiện nghiên cứu định tính qua hình thức thảo luận nhóm sau đó tiến hành nghiên cứu định lượng với khảo sát trực tuyến 250 người tại TP.HCM trong lĩnh vực thực phẩm chức năng. Cuối cùng nhóm tác giả sử dụng mô hình cấu trúc tuyến tính PLS-SEM để phân tích dữ liệu thu về. Kết quả cho thấy động lực chính dẫn dắt hành vi và chuẩn chủ quan của khách hàng là Sự tự tương đồng lý tưởng với Tài sản thương hiệu người nổi tiếng trực tuyến bao gồm Nhận thức thương hiệu và Hình ảnh thương hiệu. Thông qua hành vi tương tác ảo, nhận thức thương hiệu người nổi tiếng được tăng lên. Nghiên cứu cũng đồng thời khẳng định sự thúc đẩy của thương hiệu người nổi tiếng đến dự định mua hàng của khách hàng.","PeriodicalId":362797,"journal":{"name":"Tạp chí Nghiên cứu Tài chính - Marketing","volume":"29 1","pages":"0"},"PeriodicalIF":0.0,"publicationDate":"2022-02-25","publicationTypes":"Journal Article","fieldsOfStudy":null,"isOpenAccess":false,"openAccessPdf":"","citationCount":null,"resultStr":null,"platform":"Semanticscholar","paperid":"128895538","PeriodicalName":null,"FirstCategoryId":null,"ListUrlMain":null,"RegionNum":0,"RegionCategory":"","ArticlePicture":[],"TitleCN":null,"AbstractTextCN":null,"PMCID":"","EPubDate":null,"PubModel":null,"JCR":null,"JCRName":null,"Score":null,"Total":0}
Nghiên cứu này nhằm xem xét ảnh hưởng của thực tiễn quản trị nguồn nhân lực đến sự gắn kết và hành vi chủ động làm việc của cán bộ ngành y tế tỉnh Gia Lai. Mô hình nghiên cứu được xây dựng dựa trên các lý thuyết về quản trị nguồn nhân lực. Phương pháp nghiên cứu định tính sơ bộ được sử dụng nhằm khám phá, điều chỉnh các thang đo. Nghiên cứu định lượng được thực hiện thông qua khảo sát 232 cán bộ ngành y tế. Các giả thuyết được kiểm định bằng mô hình cấu trúc tuyến tính (SEM). Kết quả cho thấy, thực tiễn quản trị nguồn nhân lực có ảnh hưởng tích cực đến sự gắn kết và hành vi chủ động làm việc của cán bộ ngành y tế. Đây chính là cơ sở khoa học để ngành y tế tỉnh Gia Lai quan tâm nhiều hơn đến công tác quản trị nguồn nhân lực, nhằm tăng cường sự gắn kết và hành vi chủ động của nhân viên, từ đó giúp giảm thiểu sai sót trong điều trị và nâng cao chất lượng dịch vụ chăm sóc sức khỏe.
{"title":"Ảnh hưởng của thực tiễn quản trị nguồn nhân lực đến sự gắn kết và hành vi chủ động làm việc của cán bộ ngành y tế tỉnh Gia Lai","authors":"Phạm Thị Thanh Mai","doi":"10.52932/jfm.vi67.241","DOIUrl":"https://doi.org/10.52932/jfm.vi67.241","url":null,"abstract":"Nghiên cứu này nhằm xem xét ảnh hưởng của thực tiễn quản trị nguồn nhân lực đến sự gắn kết và hành vi chủ động làm việc của cán bộ ngành y tế tỉnh Gia Lai. Mô hình nghiên cứu được xây dựng dựa trên các lý thuyết về quản trị nguồn nhân lực. Phương pháp nghiên cứu định tính sơ bộ được sử dụng nhằm khám phá, điều chỉnh các thang đo. Nghiên cứu định lượng được thực hiện thông qua khảo sát 232 cán bộ ngành y tế. Các giả thuyết được kiểm định bằng mô hình cấu trúc tuyến tính (SEM). Kết quả cho thấy, thực tiễn quản trị nguồn nhân lực có ảnh hưởng tích cực đến sự gắn kết và hành vi chủ động làm việc của cán bộ ngành y tế. Đây chính là cơ sở khoa học để ngành y tế tỉnh Gia Lai quan tâm nhiều hơn đến công tác quản trị nguồn nhân lực, nhằm tăng cường sự gắn kết và hành vi chủ động của nhân viên, từ đó giúp giảm thiểu sai sót trong điều trị và nâng cao chất lượng dịch vụ chăm sóc sức khỏe.","PeriodicalId":362797,"journal":{"name":"Tạp chí Nghiên cứu Tài chính - Marketing","volume":"202 1","pages":"0"},"PeriodicalIF":0.0,"publicationDate":"2022-02-25","publicationTypes":"Journal Article","fieldsOfStudy":null,"isOpenAccess":false,"openAccessPdf":"","citationCount":null,"resultStr":null,"platform":"Semanticscholar","paperid":"116170071","PeriodicalName":null,"FirstCategoryId":null,"ListUrlMain":null,"RegionNum":0,"RegionCategory":"","ArticlePicture":[],"TitleCN":null,"AbstractTextCN":null,"PMCID":"","EPubDate":null,"PubModel":null,"JCR":null,"JCRName":null,"Score":null,"Total":0}
N. Giang, Trần Thị Thu Giang, Nguyễn Thị Lệ Huyền, Bùi Thị Hồng Loan, Nguyễn Trần Huyền Anh
Chủ đề xây dựng hình ảnh thương hiệu mạnh đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu trong những năm gần đây, nhưng có rất ít nghiên cứu liên quan về hình ảnh thương trường đại học tiếp cận theo thái độ của sinh viên. Nghiên cứu này nhằm kiểm định sự tác động của chất lượng dịch vụ đến hình ảnh thương hiệu và ý định hành vi của sinh viên thông qua biến trung gian sự hài lòng: trường hợp nghiên cứu tại trường Đại học Tài chính - Marketing. Nghiên cứu được tiến hành qua các giai đoạn định tính để điều chỉnh thang đo, định lượng sơ bộ và định lượng chính thức. Dữ liệu nghiên cứu được thu thập từ 487 sinh viên các khoa trường đại học Tài Chính – Marketing và kiểm định qua sử dụng phần mềm Smart PLS. Kết quả nghiên cứu cho thấy chất lượng dịch vụ tác động trực tiếp đến sự hài lòng và hình ảnh thương hiệu, nhưng tác động gián tiếp đến ý định hành vi thông qua sự hài lòng. Ngoài ra, sự hài lòng và hình ảnh thương hiệu tác động trực tiếp đến ý định hành vi. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, nhóm tác giả đề xuất các kiến nghị đến lãnh đạo nhà trường.
{"title":"Tác động của chất lượng dịch vụ đến hình ảnh thương hiệu trường đại học và ý định hành vi của sinh viên: Trường hợp nghiên cứu trường Đại học Tài Chính-Marketing","authors":"N. Giang, Trần Thị Thu Giang, Nguyễn Thị Lệ Huyền, Bùi Thị Hồng Loan, Nguyễn Trần Huyền Anh","doi":"10.52932/jfm.vi67.237","DOIUrl":"https://doi.org/10.52932/jfm.vi67.237","url":null,"abstract":"Chủ đề xây dựng hình ảnh thương hiệu mạnh đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu trong những năm gần đây, nhưng có rất ít nghiên cứu liên quan về hình ảnh thương trường đại học tiếp cận theo thái độ của sinh viên. Nghiên cứu này nhằm kiểm định sự tác động của chất lượng dịch vụ đến hình ảnh thương hiệu và ý định hành vi của sinh viên thông qua biến trung gian sự hài lòng: trường hợp nghiên cứu tại trường Đại học Tài chính - Marketing. Nghiên cứu được tiến hành qua các giai đoạn định tính để điều chỉnh thang đo, định lượng sơ bộ và định lượng chính thức. Dữ liệu nghiên cứu được thu thập từ 487 sinh viên các khoa trường đại học Tài Chính – Marketing và kiểm định qua sử dụng phần mềm Smart PLS. Kết quả nghiên cứu cho thấy chất lượng dịch vụ tác động trực tiếp đến sự hài lòng và hình ảnh thương hiệu, nhưng tác động gián tiếp đến ý định hành vi thông qua sự hài lòng. Ngoài ra, sự hài lòng và hình ảnh thương hiệu tác động trực tiếp đến ý định hành vi. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, nhóm tác giả đề xuất các kiến nghị đến lãnh đạo nhà trường.","PeriodicalId":362797,"journal":{"name":"Tạp chí Nghiên cứu Tài chính - Marketing","volume":"22 1","pages":"0"},"PeriodicalIF":0.0,"publicationDate":"2022-02-25","publicationTypes":"Journal Article","fieldsOfStudy":null,"isOpenAccess":false,"openAccessPdf":"","citationCount":null,"resultStr":null,"platform":"Semanticscholar","paperid":"131447028","PeriodicalName":null,"FirstCategoryId":null,"ListUrlMain":null,"RegionNum":0,"RegionCategory":"","ArticlePicture":[],"TitleCN":null,"AbstractTextCN":null,"PMCID":"","EPubDate":null,"PubModel":null,"JCR":null,"JCRName":null,"Score":null,"Total":0}
Trần Nguyễn Gia Huy, Đặng Hoàng Minh Quân, Trần Nam Quốc
Nhu cầu nhận nuôi và chăm sóc thú cưng đã trở nên phổ biến và được nhiều người ưa thích, trở thành một xu hướng mới của giới trẻ tại Việt Nam. Từ đó, việc mua sắm và sử dụng các dịch vụ cho thú cưng cũng ngày càng tăng cao. Nghiên cứu này sử dụng thuyết giá trị tiêu dùng nhằm phân tích chi tiêu sản phẩm và dịch vụ cho thú cưng của khách hàng tại TPHCM. Bên cạnh đó, nghiên cứu cũng phân tích tác động của mức độ gắn bó với thú cưng đến hành vi tiêu dùng của họ. Bằng các công cụ phân tích thống kê mô tả, phân tích nhân tố khám phá (EFA), kiểm định độ tin cậy thang đo (CRA), phân tích nhân tố khẳng định (CFA) và mô hình cấu trúc tuyến tính (SEM) nhằm phân tích tác động của thành phần giá trị tiêu dùng như các giá trị chức năng, xã hội, cảm xúc, tri thức, và điều kiện đến nhu cầu chi tiêu sản phẩm và dịch vụ cho thú cưng. Kết quả cho thấy, việc chi tiêu cho sản phẩm và dịch vụ thú cưng của khách hàng tại TPHCM bị tác động bởi giá trị chức năng, giá trị xã hội, giá trị cảm xúc, giá trị tri thức và mức độ gắn bó với thú cưng
{"title":"Chi tiêu cho sản phẩm và dịch vụ thú cưng: Tiếp cận từ thuyết giá trị tiêu dùng","authors":"Trần Nguyễn Gia Huy, Đặng Hoàng Minh Quân, Trần Nam Quốc","doi":"10.52932/jfm.vi67.242","DOIUrl":"https://doi.org/10.52932/jfm.vi67.242","url":null,"abstract":"Nhu cầu nhận nuôi và chăm sóc thú cưng đã trở nên phổ biến và được nhiều người ưa thích, trở thành một xu hướng mới của giới trẻ tại Việt Nam. Từ đó, việc mua sắm và sử dụng các dịch vụ cho thú cưng cũng ngày càng tăng cao. Nghiên cứu này sử dụng thuyết giá trị tiêu dùng nhằm phân tích chi tiêu sản phẩm và dịch vụ cho thú cưng của khách hàng tại TPHCM. Bên cạnh đó, nghiên cứu cũng phân tích tác động của mức độ gắn bó với thú cưng đến hành vi tiêu dùng của họ. Bằng các công cụ phân tích thống kê mô tả, phân tích nhân tố khám phá (EFA), kiểm định độ tin cậy thang đo (CRA), phân tích nhân tố khẳng định (CFA) và mô hình cấu trúc tuyến tính (SEM) nhằm phân tích tác động của thành phần giá trị tiêu dùng như các giá trị chức năng, xã hội, cảm xúc, tri thức, và điều kiện đến nhu cầu chi tiêu sản phẩm và dịch vụ cho thú cưng. Kết quả cho thấy, việc chi tiêu cho sản phẩm và dịch vụ thú cưng của khách hàng tại TPHCM bị tác động bởi giá trị chức năng, giá trị xã hội, giá trị cảm xúc, giá trị tri thức và mức độ gắn bó với thú cưng","PeriodicalId":362797,"journal":{"name":"Tạp chí Nghiên cứu Tài chính - Marketing","volume":"56 1","pages":"0"},"PeriodicalIF":0.0,"publicationDate":"2022-02-25","publicationTypes":"Journal Article","fieldsOfStudy":null,"isOpenAccess":false,"openAccessPdf":"","citationCount":null,"resultStr":null,"platform":"Semanticscholar","paperid":"124842273","PeriodicalName":null,"FirstCategoryId":null,"ListUrlMain":null,"RegionNum":0,"RegionCategory":"","ArticlePicture":[],"TitleCN":null,"AbstractTextCN":null,"PMCID":"","EPubDate":null,"PubModel":null,"JCR":null,"JCRName":null,"Score":null,"Total":0}
Bài nghiên cứu xem xét vai trò của đầu tư đối với đầu tư tư nhân và tăng trưởng kinh tế qua các hệ số thu hút và lan tỏa. Sử dụng số liệu thống kê giai đoạn 1990-2019, cùng với tính toán các hệ số, nghiên cứu đã cho kết quả, đầu tư công là đầu tư vào cơ sở hạ tầng được xem như là vốn mồi để thu hút đầu tư tư nhân vào sản xuất kinh doanh. Hệ số thu hút của đầu tư công đối với đầu tư tư nhân và đầu tư sản xuất kinh doanh đang có xu hướng tăng nhanh sau giai đoạn 2001-2005 cho thấy, vai trò của đầu tư công tiếp tục mang tính chủ đạo, dẫn dắt, thu hút, lan tỏa vốn xã hội. Tuy nhiên, hệ số ICOR còn cao, thể hiện đầu tư công nói riêng và đầu tư xã hội nói chung còn kém hiệu quả. Đầu tư công vào các ngành hạ tầng như xây dựng, vận tải, kho bãi, viễn thông và ngành điện có các hệ số liên kết ngược, liên kết xuôi cao, có tác động kích thích các ngành khác phát triển, thu hút đầu tư tư nhân vào các ngành kinh tế có hiệu quả cao. Trên cơ sở các kết quả nghiên cứu trên, bài báo đã đề xuất các kiến nghị với Nhà nước cần tập trung ngân sách và huy động nguồn lực xã hội cho đầu tư công, và đầu tư công nên tập trung vào các ngành hạ tầng sẽ có hệ số lan toả cao, thúc đẩy lôi kéo các ngành khác phát triển.
{"title":"Vai trò của đầu tư công đối với đầu tư tư nhân và tăng trưởng qua các hệ số thu hút và lan tỏa","authors":"N. Liên","doi":"10.52932/jfm.vi67.243","DOIUrl":"https://doi.org/10.52932/jfm.vi67.243","url":null,"abstract":"Bài nghiên cứu xem xét vai trò của đầu tư đối với đầu tư tư nhân và tăng trưởng kinh tế qua các hệ số thu hút và lan tỏa. Sử dụng số liệu thống kê giai đoạn 1990-2019, cùng với tính toán các hệ số, nghiên cứu đã cho kết quả, đầu tư công là đầu tư vào cơ sở hạ tầng được xem như là vốn mồi để thu hút đầu tư tư nhân vào sản xuất kinh doanh. Hệ số thu hút của đầu tư công đối với đầu tư tư nhân và đầu tư sản xuất kinh doanh đang có xu hướng tăng nhanh sau giai đoạn 2001-2005 cho thấy, vai trò của đầu tư công tiếp tục mang tính chủ đạo, dẫn dắt, thu hút, lan tỏa vốn xã hội. Tuy nhiên, hệ số ICOR còn cao, thể hiện đầu tư công nói riêng và đầu tư xã hội nói chung còn kém hiệu quả. Đầu tư công vào các ngành hạ tầng như xây dựng, vận tải, kho bãi, viễn thông và ngành điện có các hệ số liên kết ngược, liên kết xuôi cao, có tác động kích thích các ngành khác phát triển, thu hút đầu tư tư nhân vào các ngành kinh tế có hiệu quả cao. Trên cơ sở các kết quả nghiên cứu trên, bài báo đã đề xuất các kiến nghị với Nhà nước cần tập trung ngân sách và huy động nguồn lực xã hội cho đầu tư công, và đầu tư công nên tập trung vào các ngành hạ tầng sẽ có hệ số lan toả cao, thúc đẩy lôi kéo các ngành khác phát triển.","PeriodicalId":362797,"journal":{"name":"Tạp chí Nghiên cứu Tài chính - Marketing","volume":"36 1","pages":"0"},"PeriodicalIF":0.0,"publicationDate":"2022-02-25","publicationTypes":"Journal Article","fieldsOfStudy":null,"isOpenAccess":false,"openAccessPdf":"","citationCount":null,"resultStr":null,"platform":"Semanticscholar","paperid":"129601001","PeriodicalName":null,"FirstCategoryId":null,"ListUrlMain":null,"RegionNum":0,"RegionCategory":"","ArticlePicture":[],"TitleCN":null,"AbstractTextCN":null,"PMCID":"","EPubDate":null,"PubModel":null,"JCR":null,"JCRName":null,"Score":null,"Total":0}
Lập kế hoạch tài chính hưu trí ngày càng được quan tâm rộng rãi trên thế giới trong thực tiễn và nghiên cứu về tài chính cá nhân nhưng còn khá mới ở Việt Nam. Bài viết này phân tích hoạt động lập kế hoạch tài chính hưu trí cho đối tượng giáo viên mầm non và tiểu học ở tỉnh Hà Nam. Số liệu được thu thập thông qua điều tra chọn mẫu ngẫu nhiên theo địa bàn với số quan sát 51 trên tổng số 57 phiếu khảo sát được phát. Kết quả nghiên cứu cho thấy, hoạt động lập kế hoạch tài chính hưu trí đang gặp phải rất nhiều hạn chế ở các khía cạnh như hiểu biết về các chính sách hưu trí, khả năng ước tính chi phí và thu nhập trong giai đoạn hưu trí, chịu trách nhiệm lập kế hoạch hưu trí, cách thức lập kế hoạch tài chính hưu trí và tiếp cận với sản phẩm tài chính dành cho hưu trí. Các giải pháp và chính sách cần được thực hiện đồng bộ để có thể cải thiện hoạt động lập kế hoạch tài chính hưu trí cho nhóm đối tượng này.
{"title":"Thực trạng lập kế hoạch tài chính hưu trí: Trường hợp giáo viên mầm non và tiểu học tỉnh Hà Nam","authors":"Nguyễn Đăng Tuệ, Nguyễn Đình Thái","doi":"10.52932/jfm.vi67.245","DOIUrl":"https://doi.org/10.52932/jfm.vi67.245","url":null,"abstract":"Lập kế hoạch tài chính hưu trí ngày càng được quan tâm rộng rãi trên thế giới trong thực tiễn và nghiên cứu về tài chính cá nhân nhưng còn khá mới ở Việt Nam. Bài viết này phân tích hoạt động lập kế hoạch tài chính hưu trí cho đối tượng giáo viên mầm non và tiểu học ở tỉnh Hà Nam. Số liệu được thu thập thông qua điều tra chọn mẫu ngẫu nhiên theo địa bàn với số quan sát 51 trên tổng số 57 phiếu khảo sát được phát. Kết quả nghiên cứu cho thấy, hoạt động lập kế hoạch tài chính hưu trí đang gặp phải rất nhiều hạn chế ở các khía cạnh như hiểu biết về các chính sách hưu trí, khả năng ước tính chi phí và thu nhập trong giai đoạn hưu trí, chịu trách nhiệm lập kế hoạch hưu trí, cách thức lập kế hoạch tài chính hưu trí và tiếp cận với sản phẩm tài chính dành cho hưu trí. Các giải pháp và chính sách cần được thực hiện đồng bộ để có thể cải thiện hoạt động lập kế hoạch tài chính hưu trí cho nhóm đối tượng này.","PeriodicalId":362797,"journal":{"name":"Tạp chí Nghiên cứu Tài chính - Marketing","volume":"19 1","pages":"0"},"PeriodicalIF":0.0,"publicationDate":"2022-02-25","publicationTypes":"Journal Article","fieldsOfStudy":null,"isOpenAccess":false,"openAccessPdf":"","citationCount":null,"resultStr":null,"platform":"Semanticscholar","paperid":"130056679","PeriodicalName":null,"FirstCategoryId":null,"ListUrlMain":null,"RegionNum":0,"RegionCategory":"","ArticlePicture":[],"TitleCN":null,"AbstractTextCN":null,"PMCID":"","EPubDate":null,"PubModel":null,"JCR":null,"JCRName":null,"Score":null,"Total":0}
Trương Thị Hồng Vân, Phan Thị My Ca, H. Dung, Nguyễn Hoàng Vinh
Sự cạnh tranh tại các ngân hàng ở Việt Nam đang rất lớn và điểm đặc biệt là tỷ lệ nhân viên ngân hàng muốn nhảy việc rất cao. Làm thế nào để nhân viên ngân hàng gắn kết hơn với công việc và sáng tạo hơn trong công việc là một chủ đề thu hút sự quan tâm của các nhà nghiên cứu lẫn các nhà quản lý. Bài nghiên cứu này hướng đến việc phân tích ảnh hưởng của yêu cầu và nguồn lực của công việc, nguồn lực cá nhân và sự hỗ trợ của đồng nghiệp đến gắn kết công việc, sự sáng tạo của nhân viên ngân hàng tại Thành phố Hồ Chí Minh. Mô hình phương trình cấu trúc dựa trên bình phương tối thiểu riêng phần (PLS-SEM) được sử dụng để xây dựng mô hình nghiên cứu và kiểm định các giả thuyết với dữ liệu từ 299 nhân viên ngân hàng. Kết quả của nghiên cứu chỉ ra rằng những tiền tố được nghiên cứu trong mô hình có ảnh hưởng đến sự gắn kết công việc và sự sáng tạo của nhân viên. Sự hỗ trợ của đồng nghiệp là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến sự gắn kết với công việc của người lao động và sự gắn kết này tác động mạnh mẽ đến hành vi sáng tạo của họ trong công việc.
{"title":"Ảnh hưởng của yêu cầu và các nguồn lực trong công việc đến sự gắn kết công việc và sáng tạo của nhân viên ngân hàng tại Thành phố Hồ Chí Minh","authors":"Trương Thị Hồng Vân, Phan Thị My Ca, H. Dung, Nguyễn Hoàng Vinh","doi":"10.52932/jfm.vi67.239","DOIUrl":"https://doi.org/10.52932/jfm.vi67.239","url":null,"abstract":"Sự cạnh tranh tại các ngân hàng ở Việt Nam đang rất lớn và điểm đặc biệt là tỷ lệ nhân viên ngân hàng muốn nhảy việc rất cao. Làm thế nào để nhân viên ngân hàng gắn kết hơn với công việc và sáng tạo hơn trong công việc là một chủ đề thu hút sự quan tâm của các nhà nghiên cứu lẫn các nhà quản lý. Bài nghiên cứu này hướng đến việc phân tích ảnh hưởng của yêu cầu và nguồn lực của công việc, nguồn lực cá nhân và sự hỗ trợ của đồng nghiệp đến gắn kết công việc, sự sáng tạo của nhân viên ngân hàng tại Thành phố Hồ Chí Minh. Mô hình phương trình cấu trúc dựa trên bình phương tối thiểu riêng phần (PLS-SEM) được sử dụng để xây dựng mô hình nghiên cứu và kiểm định các giả thuyết với dữ liệu từ 299 nhân viên ngân hàng. Kết quả của nghiên cứu chỉ ra rằng những tiền tố được nghiên cứu trong mô hình có ảnh hưởng đến sự gắn kết công việc và sự sáng tạo của nhân viên. Sự hỗ trợ của đồng nghiệp là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến sự gắn kết với công việc của người lao động và sự gắn kết này tác động mạnh mẽ đến hành vi sáng tạo của họ trong công việc.","PeriodicalId":362797,"journal":{"name":"Tạp chí Nghiên cứu Tài chính - Marketing","volume":"1 1","pages":"0"},"PeriodicalIF":0.0,"publicationDate":"2022-02-25","publicationTypes":"Journal Article","fieldsOfStudy":null,"isOpenAccess":false,"openAccessPdf":"","citationCount":null,"resultStr":null,"platform":"Semanticscholar","paperid":"130571644","PeriodicalName":null,"FirstCategoryId":null,"ListUrlMain":null,"RegionNum":0,"RegionCategory":"","ArticlePicture":[],"TitleCN":null,"AbstractTextCN":null,"PMCID":"","EPubDate":null,"PubModel":null,"JCR":null,"JCRName":null,"Score":null,"Total":0}
Ngô Nhật Phương Diễm, Thái Trần Vân Hạnh, Trương Thảo Nghi, Đỗ Thị Tuyết Nga
Bài viết được thực hiện nhằm đánh giá tác động của quyền lực giám đốc điều hành đến hành vi quản trị lợi nhuận tại các công ty niêm yết ở Việt Nam trong giai đoạn 2016 đến 2020. Nghiên cứu sử dụng dữ liệu của 485 công ty niêm yết trên hai sàn chứng khoán HOSE và HNX thông qua hồi quy dữ liệu bảng với biến phụ thuộc đại diện đo lường quản trị lợi nhuận theo mô hình Dechow và cộng sự (1995) và Kothari và cộng sự (2005). Kết quả nghiên cứu thừa nhận quyền lực giám đốc điều hành có tác động tích cực và có ý nghĩa đến quản trị lợi nhuận (theo mô hình Dechow và cộng sự, 1995), có nghĩa là giám đốc điều hành vừa là nhà sáng lập và có chuyên môn về tài chính có khả năng làm tăng hành vi quản trị lợi nhuận. Ngoài ra, nghiên cứu cũng cho thấy, các biến kiểm soát như tỷ suất sinh lời trên tài sản, dòng tiền thuần từ hoạt động kinh doanh cũng có tác động đến quản trị lợi nhuận tại cả hai mô hình đo lường dồn tích bất thường. Như vậy, kết quả nghiên cứu đóng góp rất lớn trong xây dựng cơ chế quản lý hiệu quả, góp phần giúp các chủ sở hữu có các chính sách thích hợp nhằm nâng cao chất lượng thông tin trên báo cáo tài chính và hạn chế quản trị lợi nhuận.
{"title":"Tác động của quyền lực giám đốc điều hành đến quản trị lợi nhuận tại các công ty niêm yết ở Việt Nam","authors":"Ngô Nhật Phương Diễm, Thái Trần Vân Hạnh, Trương Thảo Nghi, Đỗ Thị Tuyết Nga","doi":"10.52932/jfm.vi67.233","DOIUrl":"https://doi.org/10.52932/jfm.vi67.233","url":null,"abstract":"Bài viết được thực hiện nhằm đánh giá tác động của quyền lực giám đốc điều hành đến hành vi quản trị lợi nhuận tại các công ty niêm yết ở Việt Nam trong giai đoạn 2016 đến 2020. Nghiên cứu sử dụng dữ liệu của 485 công ty niêm yết trên hai sàn chứng khoán HOSE và HNX thông qua hồi quy dữ liệu bảng với biến phụ thuộc đại diện đo lường quản trị lợi nhuận theo mô hình Dechow và cộng sự (1995) và Kothari và cộng sự (2005). Kết quả nghiên cứu thừa nhận quyền lực giám đốc điều hành có tác động tích cực và có ý nghĩa đến quản trị lợi nhuận (theo mô hình Dechow và cộng sự, 1995), có nghĩa là giám đốc điều hành vừa là nhà sáng lập và có chuyên môn về tài chính có khả năng làm tăng hành vi quản trị lợi nhuận. Ngoài ra, nghiên cứu cũng cho thấy, các biến kiểm soát như tỷ suất sinh lời trên tài sản, dòng tiền thuần từ hoạt động kinh doanh cũng có tác động đến quản trị lợi nhuận tại cả hai mô hình đo lường dồn tích bất thường. Như vậy, kết quả nghiên cứu đóng góp rất lớn trong xây dựng cơ chế quản lý hiệu quả, góp phần giúp các chủ sở hữu có các chính sách thích hợp nhằm nâng cao chất lượng thông tin trên báo cáo tài chính và hạn chế quản trị lợi nhuận.","PeriodicalId":362797,"journal":{"name":"Tạp chí Nghiên cứu Tài chính - Marketing","volume":"35 1","pages":"0"},"PeriodicalIF":0.0,"publicationDate":"2022-02-25","publicationTypes":"Journal Article","fieldsOfStudy":null,"isOpenAccess":false,"openAccessPdf":"","citationCount":null,"resultStr":null,"platform":"Semanticscholar","paperid":"131622911","PeriodicalName":null,"FirstCategoryId":null,"ListUrlMain":null,"RegionNum":0,"RegionCategory":"","ArticlePicture":[],"TitleCN":null,"AbstractTextCN":null,"PMCID":"","EPubDate":null,"PubModel":null,"JCR":null,"JCRName":null,"Score":null,"Total":0}
Bài viết nghiên cứu sự tác động dài hạn của đầu tư công đối với đầu tư tư nhân trong nước ở các địa phương của Việt Nam. Có nhiều nghiên cứu thực nghiệm về chủ đề này trên thế giới và Việt Nam. Tuy nhiên, kết quả các nghiên cứu dẫn đến sự chưa thống nhất. Nghiên cứu đã sử dụng dữ liệu bảng của 63 tỉnh/thành của Việt Nam từ năm 2000 đến 2020, bằng phương pháp FMOLS và DOLS. Kết quả cho thấy, đầu tư công tác động thúc đẩy tích cực cho đầu tư tư nhân trên cả hai phương pháp ước lượng. Ngoài ra, tăng trưởng kinh tế cũng góp phần thu hút đầu tư tư nhân tham gia vào nền kinh tế, đồng thời, có bằng chứng chỉ ra sự nghi ngờ về FDI lấn át đầu tư tư nhân ở Việt Nam. Nghiên cứu cũng góp phần khẳng định vai trò quan trọng của đầu tư công và đề xuất một số hàm ý chính sách cho chính quyền trung ương và địa phương về đầu tư công và đầu tư tư nhân ở Việt Nam
{"title":"Tác động của đầu tư công đối với đầu tư tư nhân ở các địa phương của Việt Nam","authors":"Nguyễn Thế Khang","doi":"10.52932/jfm.vi67.244","DOIUrl":"https://doi.org/10.52932/jfm.vi67.244","url":null,"abstract":"Bài viết nghiên cứu sự tác động dài hạn của đầu tư công đối với đầu tư tư nhân trong nước ở các địa phương của Việt Nam. Có nhiều nghiên cứu thực nghiệm về chủ đề này trên thế giới và Việt Nam. Tuy nhiên, kết quả các nghiên cứu dẫn đến sự chưa thống nhất. Nghiên cứu đã sử dụng dữ liệu bảng của 63 tỉnh/thành của Việt Nam từ năm 2000 đến 2020, bằng phương pháp FMOLS và DOLS. Kết quả cho thấy, đầu tư công tác động thúc đẩy tích cực cho đầu tư tư nhân trên cả hai phương pháp ước lượng. Ngoài ra, tăng trưởng kinh tế cũng góp phần thu hút đầu tư tư nhân tham gia vào nền kinh tế, đồng thời, có bằng chứng chỉ ra sự nghi ngờ về FDI lấn át đầu tư tư nhân ở Việt Nam. Nghiên cứu cũng góp phần khẳng định vai trò quan trọng của đầu tư công và đề xuất một số hàm ý chính sách cho chính quyền trung ương và địa phương về đầu tư công và đầu tư tư nhân ở Việt Nam","PeriodicalId":362797,"journal":{"name":"Tạp chí Nghiên cứu Tài chính - Marketing","volume":"97 1","pages":"0"},"PeriodicalIF":0.0,"publicationDate":"2022-02-25","publicationTypes":"Journal Article","fieldsOfStudy":null,"isOpenAccess":false,"openAccessPdf":"","citationCount":null,"resultStr":null,"platform":"Semanticscholar","paperid":"121466693","PeriodicalName":null,"FirstCategoryId":null,"ListUrlMain":null,"RegionNum":0,"RegionCategory":"","ArticlePicture":[],"TitleCN":null,"AbstractTextCN":null,"PMCID":"","EPubDate":null,"PubModel":null,"JCR":null,"JCRName":null,"Score":null,"Total":0}
Nghiên cứu này nhằm phân tích tác động của vốn trí tuệ đến rủi ro của 30 ngân hàng Việt Nam với dữ liệu bảng không cân bằng, bao gồm 353 quan sát từ năm 2007 đến năm 2019. Nghiên cứu sử dụng phương pháp GMM (Generalized method of moments). Kết quả cho thấy tỷ lệ nợ xấu có mối tương quan nghịchvới hệ số giá trị gia tăng trí tuệ. Tuy nhiên, kết quả cũng nhấn mạnh rằng, mối quan hệ giữa hệ số giá trị gia tăng trí tuệ và rủi ro ngân hàng là mối quan hệ phi tuyến (hình chữ U). Ngoài ra, khi quan sát các thành phần của hệ số giá trị gia tăng trí tuệ, có thể nhận thấy rằng hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực có quan hệ tích cực với tỷ lệ nợ xấu và hiệu quả cấu trúc vốn có ảnh hưởng tiêu cực đến rủi ro của các ngân hàng. Trong đó, ảnh hưởng của hiêu quả cấu trúc vốn là đáng kể. Do đó, các ngân hàng cần nâng cao hiệu quả cấu trúc vốn của ngân hàng để hạn chế rủi ro.
{"title":"Tác động của vốn trí tuệ đến rủi ro của các ngân hàng thương mại tại Việt Nam","authors":"Lê Hồng Nga","doi":"10.52932/jfm.vi67.234","DOIUrl":"https://doi.org/10.52932/jfm.vi67.234","url":null,"abstract":"Nghiên cứu này nhằm phân tích tác động của vốn trí tuệ đến rủi ro của 30 ngân hàng Việt Nam với dữ liệu bảng không cân bằng, bao gồm 353 quan sát từ năm 2007 đến năm 2019. Nghiên cứu sử dụng phương pháp GMM (Generalized method of moments). Kết quả cho thấy tỷ lệ nợ xấu có mối tương quan nghịchvới hệ số giá trị gia tăng trí tuệ. Tuy nhiên, kết quả cũng nhấn mạnh rằng, mối quan hệ giữa hệ số giá trị gia tăng trí tuệ và rủi ro ngân hàng là mối quan hệ phi tuyến (hình chữ U). Ngoài ra, khi quan sát các thành phần của hệ số giá trị gia tăng trí tuệ, có thể nhận thấy rằng hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực có quan hệ tích cực với tỷ lệ nợ xấu và hiệu quả cấu trúc vốn có ảnh hưởng tiêu cực đến rủi ro của các ngân hàng. Trong đó, ảnh hưởng của hiêu quả cấu trúc vốn là đáng kể. Do đó, các ngân hàng cần nâng cao hiệu quả cấu trúc vốn của ngân hàng để hạn chế rủi ro.","PeriodicalId":362797,"journal":{"name":"Tạp chí Nghiên cứu Tài chính - Marketing","volume":"47 1","pages":"0"},"PeriodicalIF":0.0,"publicationDate":"2022-02-25","publicationTypes":"Journal Article","fieldsOfStudy":null,"isOpenAccess":false,"openAccessPdf":"","citationCount":null,"resultStr":null,"platform":"Semanticscholar","paperid":"126415713","PeriodicalName":null,"FirstCategoryId":null,"ListUrlMain":null,"RegionNum":0,"RegionCategory":"","ArticlePicture":[],"TitleCN":null,"AbstractTextCN":null,"PMCID":"","EPubDate":null,"PubModel":null,"JCR":null,"JCRName":null,"Score":null,"Total":0}